(Thanhhoa.dcs.vn): Ngày 06/7/2022, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và Kết luận số 25-KL/TW ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW; đồng chí Đỗ Trọng Hưng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh dự và phát biểu kết luận Hội nghị. Cổng Thông tin điện tử Tỉnh ủy xin giới thiệu toàn văn bài phát biểu của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy.
Thưa đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực BCĐ xây dựng Đề án tổng kết Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị!
Thưa các đồng chí đại biểu Trung ương!
Thưa các đồng chí lãnh đạo tỉnh!
Thưa toàn thể Hội nghị!
Sau 01 buổi sáng làm việc với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm cao; Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và Kết luận số 25-KL/TW ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW đã hoàn thành các nội dung, chương trình đề ra.
Qua nghe báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, các ý kiến tham gia phát biểu, nhất là ý kiến của đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực BCĐ xây dựng Đề án, có thể khẳng định: Sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và 10 năm thực hiện Kết luận số 25-KL/TW; Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa đã đoàn kết, nỗ lực vượt qua khó khăn, khơi dậy và phát huy hiệu quả nhiều tiềm năng, lợi thế, khơi dậy mạnh mẽ các nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị, vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành; cụ thể hóa thành các kế hoạch, chương trình, đề án và đã hoàn thành được phần lớn các chỉ tiêu, mục tiêu đề ra.
Từ một tỉnh có xuất phát điểm thấp, quy mô nền kinh tế còn nhỏ, hạ tầng kinh tế - xã hội vừa thiếu, vừa yếu; nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao còn ít; đặc biệt, cùng với các tỉnh trong vùng, Thanh Hóa cũng là nơi thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, bão lũ, dịch bệnh,… đến nay, Thanh Hóa đã từng bước khẳng định là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của khu vực miền Trung và cả nước. Kinh tế liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao; tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm (GRDP) giai đoạn 2004 - 2010 đạt 10,7%, giai đoạn 2011 - 2019 đạt 9,8%, giai đoạn 2011 - 2020 đạt 9,4%; năm 2021 đạt 8,85%, đứng thứ 5/63 tỉnh, thành phố; 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 13,41%, đứng thứ 3 cả nước.
Quy mô GRDP của tỉnh xếp thứ 8 cả nước và đứng đầu các tỉnh Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành một số cơ sở sản xuất, ngành, lĩnh vực có đóng góp lớn cho phát triển của khu vực và cả nước. Nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội quan trọng của tỉnh nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước, như: Thu hút khách du lịch, thị trường bán lẻ, thành lập mới doanh nghiệp, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,... Đặc biệt, thu ngân sách nhà nước có bước tăng trưởng đột phá, đang từng bước tự cân đối ngân sách, để có thể điều tiết về Trung ương; năm 2021 thu ngân sách đạt 40.567 tỷ đồng, gấp 25 lần so với năm 2004; 6 tháng đầu năm 2022, thu ngân sách đạt 26.334 tỷ đồng, gần đạt dự toán cả năm. Bên cạnh đó, với lợi thế 102km bờ biển, có nhiều bãi biển đẹp, kinh tế biển, đặc biệt là du lịch, dịch vụ biển và nghề cá tiếp tục có bước phát triển rõ rệt. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới được triển khai thực hiện đồng bộ. Thanh Hóa là một trong những tỉnh có số huyện, xã, thôn, bản đạt chuẩn nông thôn mới nhiều nhất; đến nay, toàn tỉnh có 12 đơn vị cấp huyện, 346 xã và 818 thôn, bản đạt chuẩn nông thôn mới; 56 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 09 xã và 214 thôn, bản đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu...
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được quan tâm đầu tư; đô thị phát triển nhanh theo hướng hiện đại. Các chương trình, dự án đầu tư có trọng điểm, đạt nhiều kết quả trên tất cả các ngành, lĩnh vực; hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, nhất là hạ tầng giao thông phát triển. Cùng với phát triển kinh tế, các hoạt động văn hóa – xã hội, nhất là chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn, thể thao thành tích cao tiếp tục đạt kết quả tích cực; các chính sách an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Tỉnh thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về truyền thống văn hoá, lịch sử hào hùng của đất nước, của quê hương, khơi dậy niềm tự hào và phát huy tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường trong mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân, từ đó biến niềm tự hào thành nguồn lực, động lực quan trọng để xây dựng Thanh Hóa trở thành một trong những trung tâm văn hóa lớn của khu vực và cả nước. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh, trật tự, an toàn xã hội được củng cố. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đổi mới và đạt kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên. Hoạt động đối ngoại, sự phối hợp với các cơ quan Trung ương, liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và cả nước được đẩy mạnh. Nhiều chương trình, dự án, các công trình quan trọng, có tính chất liên vùng đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, như: Cảng hàng không Thọ Xuân, hệ thống cảng biển nước sâu Nghi Sơn, Nâng cấp mở rộng quốc lộ 1A, quốc lộ 217, đường từ Cảng hàng không Thọ Xuân đi Khu kinh tế Nghi Sơn… và tới đây các tuyến đường bộ ven biển, đường bộ cao tốc Bắc Nam sẽ hoàn thành, góp phần thúc đẩy lan toả phát triển từ đô thị đến nông thôn, từ đồng bằng ven biển đến miền núi và kết nối Thanh Hóa với các tỉnh, thành phố trong khu vực và cả nước.
Đạt được những kết quả nêu trên là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự hỗ trợ, giúp đỡ của các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; sự liên kết, hợp tác của các tỉnh, thành phố vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và cả nước; sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời của cả hệ thống chính trị; sự nỗ lực, cố gắng của nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong tỉnh.
Thay mặt Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, tôi nhiệt liệt biểu dương và đánh giá cao tinh thần trách nhiệm, sự nỗ lực, cố gắng và những kết quả mà các cấp, các ngành, các địa phương, cán bộ, đảng viên và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh đạt được trong suốt chặng đường gần 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết vừa qua.
Thưa các đồng chí! Thưa toàn thể Hội nghị!
Những kết quả mà tỉnh Thanh Hóa đạt được nêu trên là rất phấn khởi và thật tự hào, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình chung đang có nhiều khó khăn, thách thức; song, so với mục tiêu, yêu cầu đề ra thì vẫn còn những hạn chế, yếu kém đã được nêu đầy đủ trong Báo cáo và được phân tích kỹ lưỡng tại Hội nghị. Tôi xin nhấn mạnh một số hạn chế, yếu kém, đó là:
- Tăng trưởng kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng; chất lượng tăng trưởng kinh tế, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, các sản phẩm còn thấp. Kết cấu hạ tầng vẫn còn thiếu, yếu và chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp và khu vực miền núi. Một số dự án triển khai chậm do thiếu vốn và vướng mắc về giải phóng mặt bằng. Cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh có mặt còn hạn chế. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp gặp khó khăn. Năng lực khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao còn hạn chế.
- Sản xuất nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn; tái cơ cấu ngành nông nghiệp còn chậm; sản phẩm có thương hiệu, xuất khẩu chưa nhiều. Thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp truyền thống còn thấp. Một số dự án công nghiệp hiệu quả chưa cao, ảnh hưởng đến môi trường… Dịch vụ có giá trị gia tăng cao phát triển chưa mạnh. Sản phẩm du lịch chưa đa dạng, tập trung chủ yếu là du lịch biển và vẫn phụ thuộc vào mùa vụ. Xuất khẩu chủ yếu vẫn là hàng hóa gia công, sản phẩm thô, giá trị gia tăng thấp.
- Văn hóa, xã hội phát triển chưa đồng đều; khoảng cách phát triển giữa miền xuôi và miền núi có xu hướng gia tăng. Chất lượng giáo dục ở khu vực miền núi còn thấp. Năng lực hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng còn yếu. Tình trạng ô nhiễm môi trường, mất vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn còn xảy ra.
- An ninh trên tuyến biên giới và một số địa bàn trọng điểm còn tiềm ẩn yếu tố gây mất ổn định. Tội phạm ma túy còn diễn biến phức tạp. Vẫn còn vụ việc khiếu kiện đông người, kéo dài chưa được giải quyết dứt điểm.
- Năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, chỉ đạo, quản lý, điều hành của chính quyền một số đơn vị cấp huyện, cấp xã còn hạn chế. Chất lượng cán bộ ở một số lĩnh vực, ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa tiền phong, gương mẫu, thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ...
- Hợp tác, liên kết với các tỉnh, thành phố trong vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ; chưa có cơ chế, chính sách liên kết giữa các tỉnh, thành phố trong vùng trong việc hợp tác phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề mang tính liên tỉnh.
Với tinh thần trách nhiệm cao, không né tránh khuyết điểm, tôi đề nghị thông qua hội nghị lần này, các cấp, các ngành, các địa phương, phải có sự nỗ lực lớn hơn, quyết tâm cao hơn, hành động quyết liệt hơn nữa để khắc phục những hạn chế, yếu kém này, tạo tiền đề vững chắc để tổ chức thực hiện thắng lợi tất cả các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2022 và những năm tiếp theo.
Thưa các đồng chí! Thưa toàn thể Hội nghị!
Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đề ra mục tiêu phấn đấu xây dựng và phát triển Thanh Hóa “đến năm 2025, trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước - một cực tăng trưởng mới ở phía Bắc của Tổ quốc; đến năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại; đến năm 2045 là tỉnh giàu đẹp, văn minh và hiện đại, tỉnh phát triển toàn diện và kiểu mẫu của cả nước”.
Trong bối cảnh phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của quá trình hội nhập, đòi hỏi các địa phương phải đẩy mạnh liên kết, hợp tác để cùng nhau vượt qua khó khăn, phát huy và khai thác hiệu quả nhất kết cấu hạ tầng kết nối nội vùng, liên vùng; phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của các ngành, lĩnh vực, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của từng tỉnh, thành phố và của cả vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, Hội nghị chúng ta thể hiện sự thống nhất cao với các quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị của tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được nêu trong Báo cáo và các ý kiến phát biểu tại hội nghị, đặc biệt là phát biểu của đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực BCĐ xây dựng Đề án. Chúng tôi xin tiếp thu và và sẽ cụ thể hóa ý kiến của Đồng chí vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ của tỉnh trong thời gian tới.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả nội dung Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị, trong thời gian tới, tôi đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong tỉnh tập trung triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả các phương án, biện pháp, giải pháp phòng, chống dịch COVID-19, gắn với đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”. Triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp nhằm nhanh chóng phục hồi và đẩy mạnh phát triển kinh tế, trọng tâm là tạo chuyển biến mạnh mẽ trên 4 lĩnh vực: (1) Hỗ trợ doanh nghiệp khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh; (2) Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư và đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án; (3) Tiếp tục đầu tư nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng kinh tế - xã hội; (4) Cơ cấu lại và sử dụng hiệu quả nguồn lao động.
Thứ hai, khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2020-2025; phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành chức năng xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản về quy trình thực hiện 4 chính sách đặc thù thuộc lĩnh vực tài chính theo Nghị quyết số 37/2021/QH15 của Quốc hội và các cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Đấu mối, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành Trung ương sớm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quy hoạch chung đô thị Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đến năm 2040; kế hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021 - 2025 cấp tỉnh, phù hợp với định hướng phát triển tỉnh theo Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị, để triển khai thực hiện.
Thứ ba, tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, khắc phục những hạn chế, yếu kém, thực hiện đồng bộ các giải pháp cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Trọng tâm là:
- Đối với lĩnh vực nông nghiệp, tập trung phát triển ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh tích tụ, tập trung đất đai, phát triển nông nghiệp công nghệ cao để hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá quy mô lớn, chất lượng cao; phát triển các chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ. Đổi mới phương thức sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.
- Tập trung phát triển công nghiệp với tốc độ cao, trọng tâm là công nghiệp nặng, công nghiệp năng lượng và công nghiệp chế biến, chế tạo; ưu tiên phát triển mạnh các ngành công nghiệp lọc hóa dầu và sau lọc hóa dầu, công nghiệp phục vụ kinh tế biển, công nghiệp công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn…; thu hút đầu tư các dự án công nghiệp mới quy mô lớn, đưa Thanh Hoá trở thành một trong những trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ và cả nước về công nghiệp. Thu hút đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp.
- Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, đưa Thanh Hóa trở thành một trong những trọng điểm về du lịch, vận tải - cảng biển của khu vực và cả nước. Đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng du lịch đang triển khai; lấy doanh nghiệp làm trọng tâm để xây dựng các tuyến du lịch kết nối giữa tỉnh Thanh Hóa với các trọng điểm du lịch của cả nước. Khai thác hiệu quả lợi thế của cụm cảng nước sâu Nghi Sơn để phát triển mạnh dịch vụ cảng biển, vận tải biển; xây dựng trung tâm logistics cấp vùng hạng I tại Khu kinh tế Nghi Sơn. Phối hợp với các Bộ, ngành chức năng đầu tư nâng cấp Cảng hàng không Thọ Xuân trở thành cảng hàng không quốc tế.
- Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, tạo sức hấp dẫn mới để đẩy mạnh thu hút đầu tư, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Rà soát, khắc phục những hạn chế, yếu kém, nâng cao thứ hạng Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX). Ban hành các cơ chế, chính sách, tạo sức hấp dẫn mới; tổ chức hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư.
- Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn đầu tư công; ưu tiên bố trí vốn đầu tư công để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm; sử dụng hiệu quả vốn đầu tư công để dẫn dắt, thu hút nguồn lực hợp pháp của xã hội, tạo sự chuyển biến rõ nét về phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội; quan tâm đầu tư cho khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số. Nâng cao năng lực của các tổ chức khoa học công nghệ; đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Thứ tư, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Đẩy mạnh phong trào toàn dân tập thể dục, phát triển thể thao thành tích cao. Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giữ vững thành tích giáo dục mũi nhọn trong nhóm các tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động tối đa các nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất; chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ y tế; nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân. Thực hiện đồng bộ các chương trình, đề án, chính sách hỗ trợ giảm nghèo; ưu tiên hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, giúp người nghèo phát triển sinh kế, ổn định đời sống, tự vươn lên thoát nghèo bền vững.
Thứ năm, tăng cường liên kết, hợp tác với các tỉnh trong vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung bộ và các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, nhất là trong xúc tiến đầu tư và thương mại, huy động và phân bổ nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; xây dựng các chương trình, tuyến du lịch liên tỉnh, liên vùng.
Thứ sáu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu; trọng tâm là thực hiện tốt công tác quản lý đất đai; huy động các nguồn lực để đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống xử lý nước thải, chất thải tại Khu kinh tế Nghi Sơn, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, đô thị; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ bảy, tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn toàn tỉnh; trọng tâm là tiếp tục xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, biên phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, chủ động nắm chắc tình hình, phát hiện sớm và xử lý kịp thời, dứt điểm các vụ việc phức tạp về an ninh trật tự, không để phát sinh thành “điểm nóng”; tăng cường đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm; thực hiện tốt công tác bảo đảm an toàn giao thông, phòng, chống cháy nổ.
Thứ tám, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, gắn với nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp, hoạt động của hệ thống chính trị. Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII và các nghị quyết, quy định, kết luận của Trung ương về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xây dựng và nhân rộng những mô hình hay, cách làm hiệu quả trong học tập và làm theo Bác. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, bè phái, cục bộ địa phương, mất đoàn kết, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy gắn với tinh giản biên chế; rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2020-2025 và 2021-2026; xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2025-2030 và 2026-2031; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, ngang tầm nhiệm vụ. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả công tác chính trị tư tưởng, công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng, Chính quyền với Nhân dân; xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển của tỉnh.
Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo tỉnh, tôi trân trọng cảm ơn đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực BCĐ xây dựng Đề án, các đồng chí lãnh đạo của các ban, ngành Trung ương, các đồng chí trong Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án đã luôn quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ tỉnh Thanh Hoá; mong rằng trong thời gian tới các đồng chí sẽ tiếp tục giành cho Thanh Hoá sự quan tâm, chỉ đạo và giúp đỡ có hiệu quả nhiều hơn nữa để Thanh Hóa ngày càng phát triển, đóng góp vào sự phát triển chung của vùng và cả nước.
Cuối cùng, thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy, tôi xin chúc đồng chí Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, các đồng chí lãnh đạo tỉnh, các vị đại biểu, cùng toàn thể các đồng chí mạnh khoẻ, hạnh phúc và thành công.
Tôi tuyên bố bế mạc Hội nghị./.