(Thanhhoa.dcs.vn): Trên cơ sở nội dung, nhiệm vụ và các chỉ tiêu được giao tại Kế hoạch số 281/KH-UBND ngày 10/12/2023 của Chủ tịch UBND tỉnh về chuyển đổi số năm 2023 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa; các cơ quan, đơn vị đã tập trung triển khai thực hiện và hoàn thành 30/34 chỉ tiêu; còn lại 04/34 chỉ tiêu đang được các cơ quan, đơn vị triển khai.

Công tác truyền thông thúc đẩy quá trình chuyển đổi số luôn được các cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm thực hiện, được triển khai đồng bộ từ đầu tư hạ tầng, đổi mới nội dung, hình thức, tần suất tuyên truyền, đa dạng các phương thức truyền thông, từ hệ thống truyền thanh cơ sở đến trang/cổng thông tin điện tử và sử dụng các nền tảng mạng xã hội để thực hiện việc phổ biến, tuyên truyền. UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 210/KH-UBND ngày 22/8/2023 về tổ chức các sự kiện hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2023 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa; theo đó, đã tổ chức 05 sự kiện hưởng ứng, tập trung vào các hoạt động mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, doanh nghiệp và thúc đẩy, quảng bá để toàn dân sử dụng sản phẩm, dịch vụ số Việt Nam. Trang thông tin chuyển đổi số của tỉnh (https://chuyendoiso.thanhhoa.gov.vn) đã đưa được 127 tin bài, thu hút được khoảng 1.861.035 lượt người theo dõi và là kênh thông tin chính thống để cập nhật và đưa thông tin về chuyển đổi số phục vụ cán bộ, công chức, viên chức, Tổ công nghệ số cộng đồng, người dân và doanh nghiệp (về các chính sách pháp luật, sáng kiến, cách làm). Trang thông tin điện tử của các đơn vị đã đưa được 685 tin, bài và phát lại trên hệ thống đài truyền thanh là 2.137 lượt tin để tuyên truyền nâng cao nhận thức về chuyển đổi số. Duy trì thường xuyên chuyên mục “Chuyển đổi số” (thời lượng 10 phút/tuần) trên sóng truyền hình và phát thanh, tăng cường tuyên truyền các nội dung chương trình chuyển đổi số quốc gia và chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong mục “Chuyển đổi số” trên trang thông tin điện tử của Đài Phát thanh và Truyền hình (Đài PTHT) tại địa chỉ truyenhinhthanhhoa.vn; trong năm 2023, trên các kênh sóng của Đài PTTH tỉnh có gần 200 tin, bài tuyên truyền về chuyển đổi số, phát triển kinh tế số và xã hội số, trong đó có 104 chuyên mục “Chuyển đổi số” trên 02 sóng phát thanh, truyền hình và các nền tảng số như Website Truyenhinhthanhhoa.vn, Ứng dụng TruyenhinhThanhHoa, Youtube, Tiktok. Sở Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với Đài PTTH tỉnh, các cơ quan báo chí để xây dựng 12 phóng sự, 25 bài viết tuyên truyền về mô hình, cách làm hay về chuyển đổi số ở các xã, phường; tuyên truyền triển khai mô hình “3 Không” 4 ; mô hình “Ngày không viết”, “Ngày không hẹn” trong giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) trong hoạt động sản xuất kinh doanh; về sử dụng dữ liệu mở để khai thác các giá trị nhằm phát triển doanh nghiệp trong thời đại số; chia sẻ các kinh nghiệm của những doanh nghiệp thành công trong chuyển đổi số, cụ thể: Hội nghị tuyên truyền về chuyển đổi số, hội nghị tư vấn tiếp cận các nền tảng chuyển đổi số như nền tảng hỗ trợ vay vốn tín chấp, các nền tảng chuyển đổi số cho 6.500 doanh nghiệp.

Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 10/11/2021 về chuyển đổi số tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; trên cơ sở đó UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 176/QĐ-UBND ngày 10/01/2022 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 06- NQ/TU ngày 10/11/2021; đến nay có 48/48 các sở, ban, ngành cấp tỉnh, UBND cấp huyện và 559/559 UBND cấp xã đã ban hành chương trình/kế hoạch/đề án chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã triển khai thực hiện kế hoạch chuyển đổi số năm 2023. UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo chuyển đổi số tỉnh đã ban hành 01 Chỉ thị, 16 Quyết định, 08 Kế hoạch và 03 văn bản chỉ đạo khác.

Ban Chỉ đạo chuyển đổi số tỉnh thường xuyên rà soát, kiện toàn các thành viên để đảm bảo việc phân công, phụ trách theo dõi các ngành, lĩnh vực và các địa phương trên địa bàn tỉnh. Định kỳ hằng quý, Ban Chỉ đạo chuyển đổi số của tỉnh đã tổ chức Hội nghị triển khai công tác và hội nghị chuyên đề đối với các chương trình dự án công nghệ thông tin (CNTT) của tỉnh; tham dự các Hội nghị trực tuyến với Ủy ban Quốc gia về chuyển đối số. Trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ, của Bộ Thông tin và Truyền thông và kết luận Hội nghị của Ủy ban Quốc gia về Chuyển đổi số, Ban chỉ đạo chuyển đổi số tỉnh đã đánh giá kết quả hoạt động 03 tháng, 06 tháng, 09 tháng và các nhiệm vụ được giao cho thành viên Ban Chỉ đạo; qua đó, phân tích đánh giá các nội dung, nhiệm vụ đã triển khai đồng thời đề xuất giải pháp để triển khai thực hiện các nhiệm vụ về chuyển đổi số một cách hiệu quả và thiết thực hơn; các thành viên Ban Chỉ đạo thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ về chuyển đổi số tại các đơn vị được giao phụ trách. Đã tổ chức 03 đoàn kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và các chỉ tiêu chuyển đổi số tại 04 sở, ban, ngành cấp tỉnh và 07 UBND cấp huyện và lựa chọn mỗi huyện ít nhất 01 đơn vị cấp xã để thực hiện kiểm tra và 09 đoàn kiểm tra tình hình ứng dụng CNTT tại Bộ phận một cửa điện tử và việc sử dụng các phần mềm dùng chung của tỉnh; tổ chức đoàn công tác đi học tập kinh nghiệm về mô hình chuyển đổi số tại các địa phương; tham dự hội thảo, hợp tác phát triển CNTT quốc gia... để học hỏi cách làm hay và những điểm mạnh về việc thực hiện chuyển đổi số tại các tỉnh bạn để triển khai tại tỉnh cho phù hợp.

Hạ tầng số được quan tâm đầu tư, phát huy hiệu quả thiết thực. Hạ tầng, trang thiết bị CNTT trong các cơ quan, đơn vị tiếp tục được quan tâm đầu tư đồng bộ, hiện đại từ cấp tỉnh đến cấp xã nhằm phục vụ tốt công tác chuyên môn, chuyển đổi số; 100% cán bộ, công chức được trang bị thiết bị CNTT; 100% các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh có hạ tầng mạng LAN, kết nối Internet đảm bảo thông suốt, an toàn để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. 100% các hệ thống thông tin của cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh thực hiện chuyển đổi sang IPv6; người dùng thực hiện truy cập song song cả 02 dải địa chỉ (địa chỉ IPv4 và IPv6) trên môi trường mạng. Các Trung tâm tích hợp dữ liệu của tỉnh tiếp tục được đầu tư đảm bảo cho việc duy trì, khai thác hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu (CSDL), các phần mềm ứng dụng cho các cơ quan Đảng và cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin; hệ thống điều hành, giám sát an ninh mạng (SOC) được đầu tư, bảo đảm an toàn thông tin cho các hệ thống thông tin dùng chung của tỉnh và luôn hoạt động ổn định, thông suốt, an toàn 24/7. Duy trì, vận hành hơn 700 phòng họp trực tuyến từ cấp tỉnh đến cấp xã; hàng năm đã tổ chức được trên 100 cuộc họp giao ban trực tuyến giữa UBND tỉnh với Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương; giữa UBND tỉnh với UBND cấp huyện, cấp xã; và hơn 410 cuộc họp trực tuyến giữa cấp huyện với cấp xã nhằm tiết kiệm về mặt thời gian và chi phí hành chính khác. Một số ngành, lĩnh vực đã ứng dụng các nền tảng số và các công nghệ mới (chuỗi khối-Block chain và Internet vạn vật-IoT) vào hoạt động quản lý như: hệ thống giám sát chỉ số không khí của ngành Tài nguyên môi trường, hệ thống giám sát mực nước các hồ đập của ngành Công Thương; nền tảng du lịch thông minh, nền tảng khám chữa bệnh, nền tảng nông nghiệp thông minh...

Hạ tầng viễn thông tiếp tục được các doanh nghiệp đầu tư mở rộng vùng phục vụ, đáp ứng nhu cầu cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông, Intenet băng thông rộng cố định, di động và dịch vụ truyền hình qua mạng viễn thông. Tổng số trạm trên toàn mạng đạt 9.347 trạm BTS (2.587 trạm 2G, 2.744 trạm 3G, 4.016 trạm 4G) lắp đặt tại 3.982 vị trí; Có 14 thiết bị chuyển mạch cố định; gần 3.000 thiết bị truy nhập Internet băng thông rộng. Năm 2023, Các doanh nghiệp cũng đầu tư xây dựng mới gần 800km cáp mạng ngoại vi; cải tạo chỉnh trang khoảng 250km cáp; phối hợp với các cơ quan Nhà nước để di dời, giải phóng mặt bằng để triển khai thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh. Tổng số thuê bao điện thoại trên toàn mạng ước đạt 2.973.300 thuê bao bằng 100,77% so với cùng kỳ (trong đó 25.000 thuê bao cố định; 2.955.000 thuê bao di động), đạt mật độ 81,5 máy/100 dân; tổng số thuê bao Internet trên toàn mạng ước đạt 2.450.000 thuê bao bằng 103,81% so với cùng kỳ, đạt mật độ 66,77 thuê bao/100 dân. 100% số thôn/bản trên địa bàn tỉnh đã được phủ sóng thông tin di dộng 3G/4G; Số thôn/bản trên địa bàn tỉnh đã có hạ tầng băng rộng cố định là 4.342/4.357 (tỷ lệ 99.65%), số thôn/bản chưa được đầu tư hạ tầng băng rộng cố định là 15 bản.

Dữ liệu số đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình thực hiện chuyển đổi số; do đó, các ngành, các đơn vị đã thực hiện số hóa, phát triển dữ liệu, xây dựng CSDL của các cơ quan, đơn vị và tăng cường kết nối, chia sẻ dữ liệu; khai thác dữ liệu phục vụ cải cách hành chính, cung cấp dịch vụ công, nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành của các cơ quan, đơn vị và hỗ trợ trong công tác ra quyết định của các cơ quan giúp nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành của các cơ quan, đơn vị. Việc tạo lập, kết nối, chia sẻ dữ liệu giúp người dân, doanh nghiệp không phải kê khai, cung cấp thông tin nhiều lần; cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan nhà nước không phải nhập lại thông tin khi thao tác nghiệp vụ trên nhiều phần mềm; việc khai thác các dữ liệu dùng chung sẽ làm giảm việc đầu tư trùng lặp, gây lãng phí và cho phép cung cấp dữ liệu mở ra bên ngoài phục vụ khu vực tư xây dựng, phát triển hệ sinh thái ứng dụng, dịch vụ mới cho xã hội; vì thế, trong thời gian qua các đơn vị trên địa bàn tỉnh đã tạo lập, duy trì được một số dữ liệu số như: Cổng Dữ liệu mở của tỉnh (https://opendata.thanhhoa.gov.vn) đã được đưa vào triển khai, sử dụng với 234 CSDL mở của 15 lĩnh vực nhằm chia sẻ, công khai các dữ liệu mở phục vụ công tác chỉ đạo điều hành và công khai, minh bạch thông tin của các cơ quan chính quyền cho người dân, doanh nghiệp. Hoàn thành việc kết nối chính thức giữa Cổng dịch vụ công; hệ thống một cửa điện tử tỉnh Thanh Hóa với CSDL quốc gia về dân cư và hệ thống Đăng ký, giải quyết chính sách trợ giúp xã hội trực tuyến của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; việc kết nối với CSDL Quốc gia dân cư bắt đầu được đưa vào khai thác sử dụng từ ngày 20/02/2023 giúp người dân khi thực hiện các dịch vụ công không phải khai báo lại thông tin cá nhân và thời gian thực hiện các dịch vụ công được nhanh chóng, chính xác và thuận lợi. Lĩnh vực Y tế: Đã có 679/679 cơ sở y tế triển khai việc sử dụng thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chíp thay thế thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) trong khám bệnh, chữa bệnh, đạt tỷ lệ 100%; có 5.989.970 lượt tra cứu, trong đó số lượt tra cứu thành công là 4.123.648 lượt; số lượng CCCD được đồng bộ với thẻ BHYT còn hiệu lực để đi khám chữa bệnh bằng CCCD là 3.056.476. Lĩnh vực an sinh xã hội: Thực hiện chi trả chính sách an sinh xã hội không dùng tiền mặt cho đối tượng người có công với cách mạng và đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh; tổng số đối tượng hưởng chế độ chính sách an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh là: 261.308 người (trong đó: 194.479 người hưởng chính sách bảo trợ xã hội; 66.829 người hưởng chính sách người có công). Phát triển công dân số: Tiếp tục thu nhận hồ sơ cấp thẻ CCCD cho công dân trên địa bàn (cả thường trú, tạm trú, cư trú); đã thu nhận được 3.449.484 hồ sơ đề nghị cấp CCCD; đã kích hoạt thành công 1.685.383 tài khoản định danh điện tử/1.620.967 chỉ tiêu giao; đạt tỷ lệ 103,97 % (vượt chỉ tiêu giao). Dữ liệu trẻ em: Đã chuẩn hóa, làm sạch và cập nhật thông tin dữ liệu trẻ em: 960.281/960.281 trẻ em (đạt tỷ lệ 100%). Dữ liệu người có công: đã thực hiện rà soát và làm sạch 60.878/65.161 người trên hệ thống CSDL quốc gia về dân cư (đạt tỷ lệ 96,5%). Dữ liệu Bảo hiểm xã hội: toàn tỉnh đã xác thực đúng với CSDLQG về dân cư 3.131.934/3.234.471 hồ sơ, đạt tỷ lệ 96,82%. Dữ liệu cán bộ, công chức, viên chức người lao động: đã cập nhật, số hóa thông tin của 84.505 hồ sơ cán bộ công chức, viên chức của tỉnh và đồng bộ với CSDL quốc gia (đạt tỷ lệ 100%). Số hóa hộ tịch trên nền CSDL quốc gia về dân cư: đã nhập dữ liệu cho 1.319.744/2.343.764 trường hợp (đạt tỷ lệ 56,3%). Mã số thuế cá nhân: đã thực hiện rà soát được 1.872.348/2.371.256 mã số thuế cá nhân (đạt tỷ lệ 79%). Dữ liệu Giấy khám sức khỏe lái xe: toàn tỉnh có 40 cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được công bố đủ điều kiện khám và cấp Giấy khám sức khỏe lái xe, 38/40 cơ sở đã thực hiện liên thông giấy khám sức khỏe cho người lái xe. Tiếp tục duy trì kết nối, chia sẻ CSDL đất đai với CSDL quốc gia về dân cư đối với 04/27 huyện.

- Sau khi Bộ Thông tin và Truyền thông công bố các nền tảng số Quốc gia, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 78/KH-UBND ngày 21/3/2022 về triển khai thực hiện “Chương trình thúc đẩy phát triển và sử dụng các nền tảng số quốc gia phục vụ chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số” trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa và Công văn số 8908/UBND-CNTT ngày 22/6/2022 chỉ đạo việc lựa chọn các nền tảng thúc đẩy phát triển và sử dụng các nền tảng số quốc gia phục vụ chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện đã lựa chọn các nền tảng số để đưa vào áp dụng trong công việc (nền tảng thương mại điện tử; nền tảng họp trực tuyến; nền tảng học trực tuyến; nền tảng về quản trị, kinh doanh du lịch; tuyên truyền và quảng bá du lịch Thanh Hóa trên nền tảng số …); các nền tảng, phần mềm ứng dụng và các CSDL chuyên ngành do các ngành đầu tư phục vụ cho công tác quản lý và triển khai ứng dụng CNTT của các ngành từ Trung ương đến địa phương được duy trì hoạt động tương đối ổn định, các đơn vị thường xuyên cập nhật dữ liệu. Các ngân hàng phát triển, ứng dụng nền tảng ngân hàng số với phương châm “Lấy khách hàng là trung tâm”, ngân hàng số cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, giúp các tổ chức, cá nhân và người dân chủ động tiếp cận hoàn toàn tự động 24/24 giờ và không có ngày nghỉ với các thao tác nhanh chóng, an toàn và bảo mật; đăng ký mở tài khoản trực tuyến; đăng ký dịch vụ ngân hàng điện tử; đăng ký vay vốn trực tuyến; các giao dịch tài chính bằng sinh trắc học như nộp tiền vào tài khoản, thanh toán, chuyển khoản, chuyển tiền, gửi tiết kiệm… Nền tảng tích hợp và chia sẻ dữ liệu cấp tỉnh (LGSP) (tại địa chỉ https://lgsp.thanhhoa.gov.vn) được duy trì, hoạt động một cách thường xuyên, ổn định; hiện đang cung cấp 11 dịch vụ kết nối các phần mềm nội tỉnh và 11 dịch vụ kết nối bên ngoài; đã thực hiện khai báo mã định danh điện tử cho 2.588 đơn vị và đồng bộ lên hệ thống danh mục điện tử dùng chung của các cơ quan nhà nước (do Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý).

Việc triển khai, sử dụng các nền tảng, hệ thống trên địa bàn tỉnh luôn được quan tâm thực hiện, đảm bảo duy trì hoạt động ổn định, thường xuyên được cập nhật dữ liệu; kết nối liên thông được với các Bộ, ngành Trung ương, giữa các cơ quan, đơn vị và 03 cấp chính quyền trên địa bàn tỉnh; điều đó tạo tiền đề thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh; tuy nhiên vẫn còn 02 hệ thống chưa đảm bảo việc đồng bộ, chia sẻ dữ liệu giữa Cổng dịch vụ công quốc gia với hệ thống thông tin giải quyết TTHC một cửa của tỉnh.

Nhân lực chuyển đổi số là một trong những yếu tố quyết định đến thành công của quá trình chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh; trong thời gian qua, UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành các Chương trình, kế hoạch tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng về chuyển đổi số, về bảo đảm an toàn thông tin trong chuyển đổi số cho các cán bộ lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh. Đã phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức cho hơn 3.500 học viên của các sở, ban, ngành, UBND các huyện, các xã trên địa bàn tỉnh. Tuyên truyền và triển khai Nền tảng học trực tuyến mở đại trà và các khóa bồi dưỡng về chuyển đổi số cho cán bộ, công chức nòng cốt; cán bộ Lãnh đạo cấp xã; thành viên Tổ công nghệ số cộng đồng và bồi dưỡng kỹ năng số miễn phí cho người dân; đến nay hơn 8.000 học viên tham gia các khóa học trên Nền tảng học trực tuyến mở đại trà.

Công tác đảm bảo an toàn thông tin mạng được duy trì vận hành, trực đảm bảo hệ thống Trung tâm dữ liệu và điều hành an toàn, an ninh mạng tỉnh Thanh Hóa (sau đây gọi tắt là Trung tâm) hoạt động tốt 24/7; thường xuyên thực hiện công tác sao lưu dữ liệu cho các phần mềm ứng dụng, dùng chung cho các cơ quan, đơn vị tại Trung tâm; tổ chức quản lý, hỗ trợ vận hành, tổng hợp theo dõi tình hình sử dụng phần mềm dùng chung của tỉnh như phần mềm quản lý văn bản và hồ sơ công việc, nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu dùng chung (LGSP)… Hệ thống giám sát của Trung tâm điều hành an toàn, an ninh mạng tỉnh đã ghi nhận, cảnh báo và khắc phục 21 cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh có các máy tính lây nhiễm mã độc, kết nối vào mạng máy tính ma botnet do tin tặc điều khiển; xử lý khắc phục cho 421 máy tính nhiễm mã độc, 1075 máy tính có lỗ hổng bảo mật, 1020 máy tính có kết nối đến các tên miền độc hại ngoài internet. Thực hiện hỗ trợ, xử lý và ứng cứu hơn 600 lượt sự cố mất an toàn thông tin cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức trên địa bàn tỉnh. Đến nay, 100% các hệ thống thông tin trong các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh đã được chuyển đổi sang sử dụng địa chỉ IPv6; Tổ chức triển khai phân loại, xác định và trình phê duyệt Hồ sơ đề xuất cấp độ an toàn hệ thống thông tin đối với 856 hệ thống thông tin cho các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh. Kiểm tra, đánh giá lỗ hổng an toàn thông tin đối với 03 hệ thống thông tin dùng chung của tỉnh và 60 Cổng/trang thông tin điện tử của các cơ quan, đơn vị. Triển khai rà soát gán nhãn tín nhiệm mạng cho 122/692 cổng/trang thông tin điện tử.

Với quyết tâm thực hiện xây dựng Chính quyền điện tử hướng tới Chính quyền số; đổi mới phương thức làm việc; quy trình xử lý văn bản, hồ sơ công việc, giải quyết TTHC từ môi trường làm việc trên giấy sang làm việc trên môi trường điện tử trong các cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp xã; trong thời gian qua, toàn tỉnh đã có nhiều sự thay đổi, đổi mới và hiện đại hóa nền hành chính; vì vậy, kết quả hoạt động của các cơ quan nhà nước trên môi trường điện tử được thể hiện bằng những con số, phương pháp cụ thể. Việc trao đổi và xử lý văn bản hồ sơ liên thông trên môi trường mạng giữa các quan khối Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cả 03 cấp trên nền tảng tích hợp dữ liệu của tỉnh (LGSP); thực hiện việc kết nối, chia sẻ, trao đổi văn bản điện tử giữa chính quyền và doanh nghiệp. Tổng số lượt trao đổi, xử lý văn bản trên hệ thống là 2.939.433 lượt văn bản; tỷ lệ ký số cơ quan đạt 98,5%; hệ thống phần mềm Phản hồi Thanh Hóa đã tiếp nhận, xử lý trên 400 phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân với tỷ lệ xử lý đúng hạn đạt trên 93%; việc này nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy, chính quyền; nâng cao hiệu quả trong công tác phục vụ người dân và doanh nghiệp. Cổng dịch vụ công và Hệ thống một cửa điện tử của tỉnh đã được chuyển đổi sang địa chỉ IPv6 trên đó hiện cung cấp 842 dịch vụ công trực tuyến một phần và 868 dịch vụ công trực tuyến toàn trình; đã tích hợp lên Cổng dịch vụ công Quốc gia 1.710 dịch vụ (Quyết định số 2971/QĐ-UBND ngày 10 22/8/2023); tỷ lệ hồ sơ TTHC được giải quyết trước và đúng hạn đạt 98%. Cổng Dịch vụ công tỉnh và hệ thống Một cửa điện của tỉnh hoạt động ổn định, hiệu quả, thực hiện công khai, minh bạch trong giải quyết TTHC của các cơ quan nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp thực hiện TTHC mọi lúc, mọi nơi, tiết kiệm thời gian, chi phí, góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Chuyển đổi số cấp huyện, cấp xã: Hoàn thành việc đánh giá, xếp hạng mức độ chuyển đổi số của các sở, ban, ngành cấp tỉnh và UBND cấp huyện năm 2022 theo Quyết định số 3853/QĐ-UBND ngày 09/11/2022 Ban hành Bộ chỉ số đánh giá, xếp hạng của các sở, ban, ngành cấp tỉnh, UBND cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh; Chủ tịch UBND tỉnh đã công nhận hoàn thành các tiêu chí chuyển đổi số cấp xã năm 2022 đối với 31 đơn vị 16 cấp xã, đang tiếp tục thẩm định công nhận cho các đơn vị còn lại. - Đang triển khai thử nghiệm Trung tâm giám sát, điều hành thông minh của tỉnh được triển khai đảm bảo đầy đủ các chức năng, tính năng theo hướng dẫn tại Công văn số 213/THH-CPĐT ngày 03/03/2021 của Cục Tin học hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông; thí điểm triển khai nền tảng di động dành cho người dân cung cấp các tiện ích tra cứu, thông tin, thông báo kịp thời đến người dân, cộng đồng (tra cứu hồ sơ một cửa, điểm thi...), cho phép mỗi người dân có 01 tài khoản công dân số. Tài khoản công dân số cho phép người dân kế thừa lại thông tin cá nhân và sử dụng lại các giấy tờ, hồ sơ số trong sử dụng dịch vụ công thuận tiện hơn; thí điểm triển khai Trợ lý ảo hỗ trợ trong rà soát văn bản pháp luật; tại Tòa án nhân dân tỉnh đã triển khai Trợ lý ảo nhằm giúp thẩm phán, thư ký và thanh tra viên tra cứu thông tin phục vụ công tác xét xử.

Kinh tế số đã bước đầu đóng góp vào sự phát triển kinh tế của tỉnh, tỷ trọng đóng góp kinh tế số của tỉnh trong tổng quy mô nền kinh tế đạt 8,28%. Việc phát triển kinh tế số đã thay đổi hoàn toàn nhận thức, cách làm truyền thống của doanh nghiệp, người dân, hộ gia đình về tiêu thụ sản phẩm trên không gian số, sàn thương mại điện tử, mở rộng không gian tiêu thụ sản phẩm từ bó hẹp trong địa bàn, trong huyện, trong tỉnh ra ngoài tỉnh. Trong năm đã phối hợp tổ chức được 61 lớp bồi dưỡng kiến thức về khởi sự doanh nghiệp cho 3.056 học viên; 67 lớp bồi dưỡng kiến thức về quản trị doanh nghiệp cho 3.350 học viên; thực hiện chuyển phát kết quả thực hiện TTHC về đăng ký doanh nghiệp cho 641 lượt doanh nghiệp; hỗ trợ miễn phí chữ ký số trong năm đầu hoạt động cho 667 doanh nghiệp; in ấn và ban giao 3.000 cuốn cẩm nang để cấp phát miễn phí cho doanh nghiệp. Đã tổ chức 05 Hội nghị hướng dẫn về “kỹ năng tham gia hoạt động trên sàn TMĐT thúc đẩy phát triển kinh tế số nông nghiệp, nông thôn; các nội dung bảo đảm an toàn, an ninh hoạt động trên hạ tầng bưu chính khi tham gia hoạt động trên sàn thương mại điện tử” cho 450 học viên là cán bộ thôn, đoàn thanh niên và hộ sản xuất nông nghiệp; in ấn cấp phát hơn 1.300 “sổ tay truyền thông hỗ trợ hộ sản xuất nông nghiệp lên sàn thương mại điện tử, thúc đẩy phát triển kinh tế số nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”. Tiếp tục thực hiện việc hỗ trợ đưa hộ sản xuất nông nghiệp lên sàn thương mại điện tử postmart.vn và voso.vn; thực hiện kết nối triển khai công tác truyền thông lan tỏa, quảng bá các sản phẩm mũi nhọn; đưa 87.271 sản phẩm nông sản lên sàn, trong đó có 216 sản phẩm OCOP, 525 sản phẩm là thế mạnh của địa phương và sản phẩm có truy xuất nguồn gốc và hỗ trợ trên 910.000 tài khoản thanh toán không dùng tiền mặt để thanh toán các dịch vụ thiết yếu.

Xác định chuyển đổi số lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm và là đối tượng thụ hưởng kết quả mà chuyển đổi số mang lại; thời gian qua các cấp ủy, chính quyền đã chỉ đạo thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để thúc đẩy phát triển xã hội số và hình thành công dân số, cụ thể như: Thực hiện tuyên truyền và hướng dẫn người dân cài đặt phần mềm VNeID trên thiết bị di động thông minh để thuận tiện trong các giao dịch cơ bản như: thẻ BHYT, BHXH, dịch vụ công, dịch vụ y tế số, giáo dục số, sử dụng các mạng xã hội, mua bán trực tuyến, thanh toán điện tử và khai thác tiện ích, tài nguyên số trên Internet…đồng thời hướng dẫn người dân về các kỹ năng an toàn, bảo mật thông tin cơ bản để có thể tự bảo vệ tài khoản, dữ liệu của mình trên không gian số. Khuyến khích người dân thực hiện thương mại điện tử trong nông nghiệp, tập trung vào các sản phẩm OCOP chủ lực của tỉnh, sản phẩm nông nghiệp đặc sản, những sản phẩm đã ứng dụng các quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP của tỉnh giúp tăng tỷ trọng của nông nghiệp số. Tiếp tục duy trì, triển khai có hiệu quả Đề án xây dựng mô hình: "Camera Nhân dân với an ninh, trật tự" để thực hiện việc quản lý an ninh, trật tự; duy trì hiệu quả kênh giao tiếp với người dân thông qua hệ thống Zalo OA để trao đổi giữa các cơ quan chính quyền với người dân để tháo gỡ khó khăn và trao đổi thông tin một cách thuận lợi và nhanh chóng. 100% nhà văn hoá, thôn khu phố, các điểm du lịch được lắp đặt Wifi miễn phí. Đoàn Thanh niên đã hỗ trợ xây dựng mã QR Code tại các điểm du lịch (Đền Sòng Sơn, đền Chín Giếng, Chùa Khánh Quang, Khu di tích Lam Kinh, Khu du lịch Pù Luông; đền Trần, đền cô Bơ….) phục vụ du khách tra cứu, tìm hiểu thông tin về các điểm du lịch, du lịch tâm linh trên địa bàn các huyện. Đẩy mạnh thực hiện việc chi trả không dùng tiền mặt đến các đối tượng hưởng chính sách an sinh xã hội; 100% đối tượng hưởng chính sách an sinh xã hội (đã đăng ký tài khoản ngân hàng, ví điện tử, tài khoản Mobile money...)

(Lê Nguyễn Trọng Xuân - Văn phòng Tỉnh uỷ Thanh Hoá)