(Thanhhoa.dcs.vn): Các Bộ: Công an, Giao thông vận tải, Tài chính; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa có văn bản trả lời kiến nghị của cử tri Thanh Hóa gửi đến trước kỳ họp thứ 5, QH khóa XV; cụ thể như sau:

1. Nội dung kiến nghị Bộ Công an: Đề nghị đầu tư xây mới, cải tạo sửa chữa, nâng cấp Trại tạm giam, Nhà tạm giữ để đảm bảo công tác quản lý, giam giữ, góp phần bảo đảm an ninh, an toàn cho các cơ sở giam giữ. Đề nghị sớm ban hành các Nghị quyết, Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Bộ luật Hình sự thay thế các văn bản quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực

Bộ Công an trả lời như sau:

- Đối với Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa: Ngày 10/12/2021, Bộ Công an đã phê duyệt Dự án xây dựng Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa tại Quyết định số 10130/QĐ-BCA-H02 với tổng mức đầu tư 270 tỷ đồng từ nguồn vốn sắp xếp cơ sở nhà, đất của Bộ Công an. Hiện nay, Công an tỉnh đang tiến hành các thủ tục cần thiết để triển khai xây dựng Trại tạm giam mới của Công an tỉnh tại xã Đông Thịnh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Đối với các Nhà tạm giữ thuộc Công an tỉnh Thanh Hóa: Ngày 02/8/2022, Bộ Công an đã phê duyệt các dự án thành phần tại Quyết định số 5821/QĐ-BCAH02 để triển khai xây dựng Nhà tạm giữ cho Công an 05 huyện, thị xã (Bỉm Sơn, Hoằng Hóa, Thọ Xuân, Thường Xuân, Quảng Xương). Ngoài ra, Bộ Công an đang đầu tư xây dựng trụ sở Công an huyện Cẩm Thủy, Quan Sơn (trong đó có xây dựng Nhà tạm giữ) và đầu tư một số hạng mục nâng cấp Nhà tạm giữ Công an huyện Nông Cống, Yên Định. Đối với các nhà tạm giữ còn lại, Bộ Công an đang chỉ đạo Công an tỉnh Thanh Hóa rà soát nhu cầu, báo cáo để xem xét quyết định.

- Đối với việc ban hành các văn bản: Hiện nay, Bộ Công an đang tiến hành tổng kết 05 năm thực hiện Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, để đề xuất 2 sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.

2. Nội dung kiến nghị Bộ Tài chính: Đề nghị có chính sách giảm lãi suất, giảm tiền thuê đất, thuế suất để doanh nghiệp có cơ hội đầu tư; sớm ban hành quy định về xây dựng, phát triển và sử dụng Quỹ Hỗ trợ nông dân để tạo điều kiện cho nông dân được vay vốn sản xuất, kinh doanh và khởi nghiệp.

Bộ Tài chính trả lời như sau:

(i) Về chính sách giảm lãi suất cho doanh nghiệp

Theo quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) năm 2010: (i) NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (Khoản 3 Điều 2); (ii) NHNN là cơ quan công bố lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường. NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác (Điều 10 và Điều 12).

Căn cứ quy định của pháp luật nêu trên, kiến nghị về chính sách giảm lãi suất cho doanh nghiệp của cử tri tỉnh Thanh Hóa thuộc chức năng, nhiệm vụ của NHNN. Vì vậy, đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa tổng hợp ý kiến của NHNN về kiến nghị này.

(ii) Về chính sách giảm tiền thuê đất cho doanh nghiệp: Hiện nay, chính sách ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất theo pháp luật khuyến khích đầu tư đã được quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 135/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016, Nghị định số 123/2017/NĐ-CP ngày 14/11/2017 của Chính phủ). Vì vậy đề nghị cử tri tỉnh Thanh Hóa thực hiện theo quy định của pháp luật.

(iii) Về chính sách giảm thuế suất cho doanh nghiệp: Trong 03 năm 2020-2022, trước ảnh hưởng của dịch Covid-19 và tác động của các vấn đề kinh tế, chính trị quốc tế đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân. Bộ Tài chính đã chủ động nghiên cứu, đề xuất, trình cấp có thẩm quyền cũng như ban hành theo thẩm quyền các giải pháp trong lĩnh vực tài chính, đặc biệt là các giải pháp về gia hạn, miễn, giảm các khoản thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất (như gia hạn các khoản thuế (thuế giá trị gia tăng (GTGT) thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)) và tiền thuê đất; miễn, giảm các khoản thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế nhập khẩu, thuế bảo vệ môi trường (BVMT), cùng nhiều khoản phí, lệ phí và tiền thuê đất để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế. Theo đó, trong 03 năm 2020- 2022 Bộ Tài chính đã trình cấp có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền 49 văn bản quy phạm pháp luật (trong đó có: 09 Nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH; 14 Nghị định của Chính phủ; 02 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 24 Thông tư của Bộ Tài chính).

- Trong năm 2020, tổng quy mô các giải pháp hỗ trợ khoảng 129 nghìn tỷ đồng (trong đó số tiền thuế và tiền thuê đất được gia hạn khoảng 97,5 nghìn tỷ đồng, số tiền thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất được miễn, giảm hơn 31,5 nghìn tỷ đồng).

- Trong năm 2021, trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, các giải pháp hỗ trợ đã được tiếp tục triển khai ở mức cao hơn cả về nội dung và giá trị hỗ trợ với tổng quy mô khoảng 145 nghìn tỷ đồng (trong đó: số tiền thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất được miễn, giảm khoảng 25 nghìn tỷ đồng; số tiền thuế và tiền thuê đất được gia hạn khoảng 120 nghìn tỷ đồng).

- Năm 2022, để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sau dịch Covid-19. Bộ Tài chính cũng đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để đề xuất, tham mưu với Chính phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết số 43/2002/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (trong đó có quy định giảm mức thuế suất thuế GTGT đối với hầu hết các mặt hàng đang chịu thuế suất 10% xuống còn 8%, tiếp tục tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN đối với các khoản chi ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho hoạt động phòng, chống dịch Covid-19), đồng thời tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp về gia hạn, miễn, giảm thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất.

Ngoài ra, trước tình hình biến động của giá xăng, dầu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân, doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành 02 Nghị quyết để điều chỉnh giảm mức thuế BVMT đối với các mặt hàng xăng, dầu, mỡ nhờn đến hết năm 2022 (theo đó áp dụng mức thuế thấp nhất trong khung thuế suất do Quốc hội quy định kể từ ngày 11/7/2022 đến hết ngày 31/12/2022), qua đó góp phần ổn định giá xăng dầu trong nước, kiềm chế lạm phát trước biến động giá xăng dầu thế giới tăng cao.

Giá trị tiền thuế, tiền thuê đất, phí, lệ phí hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân trong năm 2022 là khoảng 233 nghìn tỷ đồng (trong đó số tiền thuế, phí, lệ phi và tiền thuê đất được miễn, giảm khoảng 98 nghìn tỷ đồng; số tiền thuế và tiền thuê đất được gia hạn khoảng 135 nghìn tỷ đồng).

Có thể thấy trong thời gian qua và đặc biệt là năm 2022 với nhiều giải pháp hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất nhằm giảm nghĩa vụ đóng góp của doanh nghiệp, người dân được triển khai thực hiện với giá trị hỗ trợ lớn, phạm vi hỗ trợ rộng, đã góp phần vào những kết quả tích cực trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội cũng như hoạt động của doanh nghiệp, người dân qua đó đóng góp trở lại cho ngân sách nhà nước (NSNN). Tuy nhiên, việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ nêu trên cũng có ảnh hưởng nhất định tới việc triển khai công tác về NSNN. Mặc dù kết quả thu NSNN của năm 2022 là tích cực, nhưng từ cuối năm 2022 và đặc biệt những tháng đầu năm 2023 đã cho thấy xu hướng giảm.

Tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện các giải pháp hỗ trợ về gia hạn thời hạn nộp thuế (đối với các sắc thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB và tiền thuê đất), giảm thuế (thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế nhập khẩu và BVMT đối với các mặt hàng xăng, dầu) và tiền thuê đất, miễn giảm các khoản thu phí, lệ phí thời gian qua thì các giải pháp có hiệu quả cao, tác động tích cực ngay tới hoạt động của doanh nghiệp, người dân tập trung vào gia hạn thời hạn nộp thuế, giảm thuế GTGT; giảm thuế BVMT (đối với các mặt hàng xăng, dầu) và giảm tiền thuê đất; giảm các khoản thu phí, lệ phí.

Năm 2023, bên cạnh những điều kiện thuận lợi kế thừa từ thành tựu trong phục hồi kinh tế của năm 2022, dự báo còn nhiều rủi ro, thách thức từ những biến động khó lường của tình hình thế giới có thể ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, người dân cũng như nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Để kịp thời, chủ động trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và tài chính - ngân sách của năm 2023, đồng thời để hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân, Bộ Tài chính đã khẩn trương nghiên cứu, đề xuất với các cấp có thẩm quyền cũng như ban hành theo thẩm quyền các giải pháp về thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất áp dụng cho năm 2023 như:

- Đã trình Chính phủ trình Quốc hội giảm 2% thuế suất thuế GTGT từ ngày 01/7/2023 đến hết ngày 31/12/2023 đối với hầu hết các mặt hàng đang áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 10% (Nghị quyết số 101/2023/QH15 ngày 24/6/2023 kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV). Dự kiến thực hiện giải pháp này số tiền thuế được giảm khoảng 24 nghìn tỷ đồng. Để giải pháp này nhanh chóng đi vào cuộc sống, đến ngay với các đối tượng gặp khó khăn cần hỗ trợ, Bộ Tài chính cũng đã khẩn trương trình Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2023/NĐ-CP ngày 30/6/2023 quy định chính sách giảm thuế GTGT theo Nghị quyết số 101/2023/QH15 và có hiệu lực cùng với thời điểm có hiệu lực của Nghị quyết.

- Đã trình Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 30/2022/UBTVQH15 ngày 30/12/2022 về mức thuế BVMT đối với xăng dầu, mỡ nhờn có hiệu lực từ ngày 01/01/2023 đến hết ngày 31/12/2023. Dự kiến thực hiện Nghị quyết này sẽ giảm thu NSNN khoảng 38 nghìn tỷ đồng.

- Đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2023/NĐ-CP ngày 14/4/2023 gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế TNDN, thuế TNCN và tiến thuê đất trong năm 2023 đối với doanh nghiệp, tổ chức và hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh. Theo đó, dự kiến số tiền thuế, tiền thuê đất được gia hạn là hơn 110 nghìn tỷ đồng.

- Đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 36/2023/NĐ-CP ngày 21/6/2023 về gia hạn thời hạn nộp thuế TTĐB phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 6, tháng 7, tháng 8 và tháng 9 năm 2023 đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước. Dự kiến thực hiện giải pháp này sẽ gia hạn khoảng 10,4 nghìn tỷ - 11,2 nghìn tỷ đồng.

- Đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2023/NĐ-CP ngày 28/6/2023 về giảm lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước. Dự kiến thực hiện giải pháp này sẽ giảm thu NSNN khoảng 8 nghìn - 9 nghìn tỷ đồng.

- Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 44/2023/TT-BTC ngày 29/6/2023 về giảm mức thu 36 khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tiết giảm chi phí của doanh nghiệp, người dân. Dự kiến thực hiện giải pháp này sẽ giảm thu NSNN khoảng 700 tỷ đồng.

- Bộ Tài chính đã lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp và sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành trong thời gian sớm nhất Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giảm tiền thuê đất phải nộp của năm 2023. Dự kiến thực hiện giải pháp này, số tiền thuê đất được giảm nghĩa vụ năm 2023 là khoảng 3,5 nghìn tỷ đồng.

Dự kiến thực hiện các giải pháp nêu trên sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân với giá trị tiền thuế, tiền thuê đất là khoảng 196 nghìn tỷ đồng, trong đó: Số tiền được gia hạn khoảng 121 nghìn tỷ đồng. Số tiền thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất được miễn, giảm khoảng 75 nghìn tỷ đồng. Như vậy, trong thời gian qua, đã có nhiều giải pháp hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất đã và đang tiếp tục được triển khai trong thực tế, việc ban hành và thực hiện các giải pháp nêu trên cũng đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao của cộng đồng doanh nghiệp, người dân, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn, ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh để đóng góp vào kết quả tích cực về phát triển kinh tế xã hội.

Trong thời gian tới, cùng với việc triển khai quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ đã được ban hành, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục theo dõi sát tình hình thực tế để nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phù hợp.

Về lâu dài, quán triệt các chủ trương, định hướng đã được để ra tại các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục nghiên cứu, tham mưu với các cấp có thẩm quyền nhằm hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách thuế phù hợp với các tiêu chuẩn của hệ thống thuế tốt theo thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu về nguồn lực để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 hướng tới một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, bảo đảm huy động hợp lý các nguồn lực cho NSNN, đồng thời, góp phần tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy cạnh tranh, điều tiết thu nhập hợp lý, phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển bền vững của nền kinh tế.

Bộ Tài chính cũng sẽ tiếp tục cải cách trên mọi mặt công tác: hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy, cải cách thủ tục hành chính theo hướng toàn diện và hiệu quả hơn, tiếp tục đẩy mạnh hiện đại hoá các lĩnh vực của ngành tài chính, đặc biệt là trong các lĩnh vực thuế, hải quan, vốn được xem là các lĩnh vực có liên quan nhiều và trực tiếp tới doanh nghiệp, người dân nhằm tạo thuận lợi, tiết giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp để cải thiện môi trường kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

(iv) Về việc sớm ban hành quy định về xây dựng, phát triển và sử dụng Quỹ Hỗ trợ nông dân để tạo điều kiện cho nông dân được vay vốn sản xuất, kinh doanh và khởi nghiệp: Nhằm tạo điều kiện cho nông dân được vay vốn sản xuất, kinh doanh và khởi nghiệp, Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành liên quan và Trung ương Hội Nông dân Việt Nam nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 37/2023/NĐ-CP ngày 24/6/2023 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ nông dân. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 08/8/2023. Do vậy, đề nghị thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành nêu trên.

3. Nội dung kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Đề nghị chỉ đạo hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tư nhân.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời như sau:

Bám sát các Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, NHNN đã ban hành, triển khai nhiều chính sách về tiền tệ, tín dụng và triển khai đồng bộ các chương trình, giải pháp tháo gỡ khó khăn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tiếp cận vốn, như:

- Điều chỉnh giảm liên tục 04 lần các mức lãi suất điều hành với mức giảm 0,5-2,0%/năm, trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao, qua đó tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. NHNN cũng quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với một số lĩnh vực ưu tiên trong đó có DNNVV ở mức 4%/năm, thấp hơn so với mức trần theo quy định của NHNN.

Đồng thời, kịp thời ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, làm việc trực tiếp với các tổ chức tín dụng (TCTD) yêu cầu triển khai các biện pháp để giảm lãi suất tiền gửi, tiết giảm chi phí, qua đó tạo dư địa để giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng; phối hợp với Hiệp hội ngân hàng để vận động sự thống nhất của các TCTD hội viên tiếp tục thực hiện giảm lãi suất cho vay. Chỉ đạo các TCTD đổi mới quy trình, đơn giản hóa thủ tục vay vốn, xây dựng các chương trình, gói tín dụng phù hợp cho DNNVV, nâng cao hiệu quả thẩm định, đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng vay, qua đó tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.

Đến cuối tháng 6/2023, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng VND của các ngân hàng thương mại giảm khoảng 1,0% năm so với cuối năm 2022, các ngân hàng thương mại đã chủ động điều chỉnh và triển khai các chương trình/gói tín dụng ưu đãi để giảm lãi suất cho vay với mức giảm khoảng 0,5-3,0%/năm tùy đối tượng khách hàng đối với các khoản vay mới, đồng thời, cam kết giảm lãi suất cho vay khoảng 0,2-2,5%/năm trong 6 tháng cuối năm 2023 tùy đối tượng khách hàng và lĩnh vực. Với tác động của độ trễ chính sách và cam kết giảm lãi suất của các TCTD, dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.

- Trình cấp có thẩm quyền theo thẩm quyền ban hành và tổ chức triển khai các chương trình tín dụng đặc thù đối với một số ngành lĩnh vực với nhiều cơ chế ưu đãi về lãi suất tài sản bảo đảm, cơ chế xử lý nợ đặc thù; hướng dẫn, chỉ đạo các TCTD phối hợp với Quỹ bảo lãnh tín dụng trong cho vay DNNVV có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương và Quỹ Phát triển DNNVV để cho vay DNNVV từ nguồn vốn của Quỹ Phát triển DNNVV.

- Tổ chức triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

Ngoài hoạt động tín dụng triển khai tại các TCTD, ngân hàng chính sách xã hội đã và đang triển khai nhiều chính sách cho vay ưu đãi lãi suất đối với DNNVV như: hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn 0% để trả lương ngừng việc cho người lao động do ảnh hưởng dịch Covid-19, cho vay đối với doanh nghiệp tại vùng khó khăn; cho vay lãi suất ưu đãi doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số; cho vay hỗ trợ lãi suất 2% từ ngân sách Nhà nước theo chương trình phục hồi và phát triển kinh tế theo Nghị định số 36/2022/NĐ-CP; cho vay hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị theo Nghị định số 28/2022/NĐ-CP...

Đến cuối tháng 6/2023, dư nợ cho vay doanh nghiệp đạt trên 51% tổng dư nợ nền kinh tế, trong đó tín dụng đối với DNNVV (đa phần là các doanh nghiệp tư nhân) đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng, tăng gần 3,5% so với cuối năm 2022, chiếm 18,4% tổng dư nợ nền kinh tế.

Như vậy có thể thấy các chính sách tín dụng, lãi suất đối với DNNVV đang được ngành Ngân hàng triển khai khi đầy đủ qua nhiều kênh tín dụng thương mại tại các ngân hàng thương mại, tín dụng ưu đãi tại ngân hàng chính sách xã hội và tín dụng tại các ngân hàng có bảo lãnh của các Quỹ bảo lãnh DNNVV.

(Lê Nguyễn Trọng Xuân - Văn phòng Tỉnh uỷ Thanh Hoá)