(Thanhhoa.dcs.vn): Ngày 10 tháng 01 năm 2024, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chương trình hành động số 56-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, với nội dung chủ yếu sau:
Về mục tiêu chung, triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, hiệu quả các chính sách xã hội của Trung ương; xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội của tỉnh theo hướng tiến bộ, công bằng, đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; tạo cơ hội cho Nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục, nhà ở, thông tin. Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế gắn với việc làm bên vững; nâng cao chất lượng quản lý phát triển xã hội gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển tỉnh Thanh Hóa theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII).
Về mục tiêu cụ thể, đến năm 2030:
- Bảo đảm 100% người có công và gia đình người có công với cách mạng được chăm lo toàn diện cả vật chất và tinh thần, có mức sống từ trung bình khá trở lên so với mức sổng của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Tỷ lệ thất nghiệp chung dưới 3%, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 2,5%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 80%, trong đó, có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35%; 60% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) và trên 45% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN); 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; 100% hộ gia đình chăm sóc trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai, người cao tuổi thuộc hộ nghèo, cận nghèo được hưởng trợ cấp xã hội theo quy định; bảo đảm mức sống tối thiếu cho người có hoàn cảnh khó khăn; trợ cấp xã hội cho hộ nghèo không có khả năng thoát nghèo.
- Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo từ 3 - 5 tuổi, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học đạt 99,5%, cấp trung học cơ sở tối thiểu đạt 95%, cấp trung học phổ thông và tương đương tối thiểu đạt 75%; duy trì đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2. Bảo đảm vững chắc mức sinh thay thế của quốc gia; tỷ số giới tính khi sinh đạt dưới 109 bé trai/100 bé gái; tuổi thọ trung bình của người dân khoảng 75 tuổi, số năm sống khỏe đạt tối thiểu 68 năm; đạt 39 giường bệnh (không bao gồm giường bệnh trạm y tế xã), 15 bác sĩ, 04 dược sĩ, 33 điều dưỡng viên trên 10.000 dân; trên 95% dân số tham gia bảo hiểm y tế (BHYT); trên 95% người dân sử dụng dịch vụ chăm sóc ban đầu tại y tế cơ sở được BHYT chi trả; trên 95% dân số được quản lý sức khỏe; tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin duy trì hằng năm đạt trên 95%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân dưới 10%, thể thấp còi dưới 15%; cơ bản chấm dứt các dịch bệnh AIDS, lao và loại trừ sốt rét.
- Xây dựng được ít nhất 13.787 căn hộ nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp, công nhân trong các KCN; xóa bỏ hoàn toàn tình trạng nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu; diện tích nhà ở bình quân đầu người đạt khoảng 33 m2 sàn/người. 100% hộ gia đình ở thành thị và 75% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn; 100% hộ gia đình, trường học, trạm y tế có công trình vệ sinh bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; 25% điểm dân cư nông thôn tập trung có hệ thống thu gom nước thải sinh hoạt, 15% nước thải sinh hoạt được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
- Có ít nhất 75% người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, 80% các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi được hưởng thụ và tham gia các hoạt động văn hoá, nghe, xem các kênh phát thanh, truyền hình của quốc gia và địa phương. Tỷ lệ số thuê bao băng rộng di động trên 100 dân đạt 75%; 100% thôn, bản được phủ sóng di động băng rộng, phủ băng rộng cố định; 80% hộ gia đình có truy nhập Internet băng rộng cáp quang.
Về tầm nhìn đến năm 2045, xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho Nhân dân, góp phần xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh giàu đẹp, văn minh, hiện đại, phát triển toàn diện và kiểu mẫu.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Kế hoạch đề ra các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm gồm: Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của chính sách xã hội; nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về chính sách xã hội; thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho ngưòi lao động; xây dựng hệ thống an sinh xã hội bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, không để ai bị bỏ lại phía sau; nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ xã hội; đẩy mạnh hợp tác và tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế trong thực hiện chính sách xã hội; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng trong thực hiện chính sách xã hội.
Các ban, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các sở, ngành, MTTQ và các đoàn thể cấp tỉnh, các huyện, thị, thành ủy, đảng ủy trực thuộc, căn cứ Chương trình này và tình hình thực tế của cơ quan, đơn vị, địa phương xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả ở địa phương, đơn vị. Ban Cán sự đảng UBND tỉnh lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo xây dựng chương trình, đề án, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW và Chương trình này; phân công trách nhiệm cụ thể cho các sở, ban, ngành, đơn vị cấp tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố trong tổ chức thực hiện. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW và Chương trình này; định kỳ báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy kết quả thực hiện.