(Thanhhoa.dcs.vn): Cổng Thông tin điện tử Tỉnh ủy Thanh Hóa xin giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Đỗ Trọng Hưng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh đăng trên Tạp chí Kinh tế số 69/2023 với tiêu đề: “Thanh Hóa triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị, phấn đấu sớm trở thành cực tăng trưởng mới ở phía Bắc Tổ quốc”.
(Ảnh:Baothanhhoa.vn)
Từ một trong những tỉnh nghèo, với điểm xuất phát thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông, lâm nghiệp; thời gian qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự giúp đỡ, hỗ trợ của các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố, với sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh; đến nay, Thanh Hóa đã vươn lên trở thành tỉnh có quy mô kinh tế lớn nhất Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, nằm trong nhóm 10 tỉnh, thành phố có quy mô GRDP lớn nhất cả nước và đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu trở thành một cực tăng trưởng mới ở phía Bắc của Tổ quốc.
Thanh Hóa nằm ở vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, điểm kết nối Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung Bộ với Vùng đồng bằng Sông Hồng; cửa ngõ thông thương ra biển gần nhất của khu vực phía Tây Tây Bắc nước ta và Đông Bắc Lào. Tỉnh có quy mô diện tích tự nhiên đứng thứ 5 cả nước, với trên 11.120 km2, quy mô dân số đứng thứ 3 cả nước, với trên 3,64 triệu người. Là một trong số ít địa phương hội tụ đủ 03 vùng địa lý, trong đó miền núi là sự nối dài của Tây Bắc Bộ, vùng đồng bằng lớn nhất Trung bộ, đất liền nhìn ra Vịnh Bắc Bộ với vùng biển rộng 17.000 km2. Trên địa bàn tỉnh có Cảng hàng không Thọ Xuân, Khu kinh tế Nghi Sơn[1] gắn với Cảng nước sâu Nghi Sơn và 08 khu công nghiệp; hệ thống giao thông thuận lợi, bao gồm đầy đủ các loại hình, với nhiều trục tuyến giao thông quan trọng quốc gia đi qua, như: Cao tốc Bắc Nam, quốc lộ 1A, quốc lộ 10, quốc lộ 47, quốc lộ 45, quốc lộ 217, quốc lộ 15, đường Hồ Chí Minh, đường ven biển, đường sắt Bắc Nam... Đây là những yếu tố thuận lợi để thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển.
Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 58-NQ/TW ngày 05/8/2020 của Bộ Chính trị (khóa XII) về "Xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hoá đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020-2025 trong bối cảnh phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức được đánh giá là chưa từng có trong lịch sử, nhất là đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, việc làm và đời sống sinh hoạt của Nhân dân. Trong muôn vàn khó khăn, kế thừa những thành tựu chung của đất nước và kế thừa, phát triển tư duy, tầm nhìn, kinh nghiệm từ nhiều nhiệm kỳ trước, Thanh Hóa đã vững vàng vượt qua khó khăn, đạt được nhiều kết quả tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực, đã và đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu “Phấn đấu đến năm 2025 trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước - một cực tăng trưởng mới, cùng với Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh tạo thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc; đến năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, người dân có mức sống cao hơn bình quân cả nước”[2]
Trong nửa đầu nhiệm kỳ 2020-2025, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã tập trung rất cao cho công tác quán triệt, triển khai, cụ thể hóa, thể chế hóa kịp thời các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước; trọng tâm là các chương trình, đề án, kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX... Chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành chức năng xây dựng, báo cáo Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trình Quốc hội khóa XV ban hành Nghị quyết số 37/2021/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thanh Hóa; rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách liên quan đến các vấn đề kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, xây dựng hệ thống chính trị; trong đó có nhiều cơ chế, chính sách quan trọng về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư, khuyến khích các ngành kinh tế có tiềm năng, lợi thế phát triển, về hỗ trợ doanh nghiệp, về chăm lo cho con người,… nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển nhanh và bền vững.
Nhờ triển khai nhiều chủ trương, giải pháp phù hợp, đúng đắn, nên mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng bức tranh tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa vẫn tiếp tục khởi sắc. Kinh tế tiếp tục duy trì đà tăng trưởng; tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đạt 10,49%; trong đó năm 2021 đạt 8,85%, đứng thứ 5 cả nước; năm 2022 đạt 12,51%, đứng thứ 7 cả nước. Quy mô GRDP (theo giá hiện hành) năm 2022 đạt 252.672 tỷ đồng, gấp 1,34 lần năm 2020. GRDP bình quân đầu người năm 2022 đạt 2.924 USD, gấp 1,32 lần năm 2020. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2022 đạt 51.138 tỷ đồng, đứng thứ 9 cả nước và là năm đầu tiên thu ngân sách của tỉnh vượt mốc 51 nghìn tỷ đồng, gấp 1,62 lần năm 2020.
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GRDP chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 17,2% năm 2020 xuống còn 14,4% năm 2022; ngành công nghiệp, xây dựng tăng từ 42,3% lên 48,4%; ngành dịch vụ giảm từ 33,5% xuống 30,4% và thuế sản phẩm tăng duy trì ở mức 6,8%. Cơ cấu các thành phần kinh tế trong GRDP chuyển dịch theo hướng phù hợp, giảm tỷ trọng thành phần kinh tế nhà nước, tăng tỷ trọng thành phần kinh tế ngoài nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài. Cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế của từng vùng, địa phương để nâng cao hiệu quả sản xuất và gắn với thị trường. Năng suất lao động xã hội liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước, bình quân hằng năm giai đoạn 2021 - 2022 đạt 10,4%; năng suất lao động xã hội bình quân năm 2022 ước đạt 101,5 triệu đồng/người, tăng 20,7 triệu đồng so với năm 2020.
Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển khá toàn diện, giữ vai trò quan trọng cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường; tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 3,7%. Hoạt động sản xuất nông nghiệp chuyển dần tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp, gắn với nhu cầu thị trường; lấy nông dân làm trung tâm, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng. Nông nghiệp sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, công nghệ cao từng bước được hình thành; đã thực hiện chuyển đổi 5.308 ha đất lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng hiệu quả cao hơn; tích tụ, tập trung được 15.339 ha đất đai để sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; hình thành các vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến, như: Lúa thâm canh, mía thâm canh, nguyên liệu sắn, cây gai xanh...
Sản xuất công nghiệp duy trì tăng trưởng cao; tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 15,8%/năm, là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Giá trị gia tăng các sản phẩm công nghiệp (theo giá hiện hành) năm 2022 đạt 87.811 tỷ đồng, gấp 1,56 lần năm 2020, đứng thứ 15 cả nước. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư; hoạt động đầu tư công được chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ. Bên cạnh việc khởi công, khánh thành, đưa vào hoạt động một số cơ sở công nghiệp quy mô lớn, như: Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 2, Nhà máy xi măng Đại Dương 1, Dây chuyền 4 - Nhà máy xi măng Long Sơn, Nhà máy sản xuất lốp ô tô Radial, Nhà máy luyện cán thép Nghi Sơn số 2, Nhà máy xi măng Đại Dương 2, Nhà máy sản xuất găng tay Nitrile Intco Việt Nam,…; Tỉnh đã khởi công một số dự án giao thông quan trọng, như: Đường Vạn Thiện - Bến En, đường nối Quốc lộ 1 với Quốc lộ 45… qua đó góp phần tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và tăng năng lực sản xuất công nghiệp của tỉnh.
Các ngành dịch vụ từng bước phục hồi và phát triển sau đại dịch COVID-19; tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021 - 2022 đạt 7,95%/năm; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2022 đạt 172.209 tỷ đồng, gấp 1,42 lần năm 2020, đứng thứ 7 cả nước về quy mô thị trường. Hoạt động xuất khẩu duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu bình quân đạt 21,3%/năm, giá trị xuất khẩu năm 2022 đạt 5.518 triệu USD, gấp 1,47 lần năm 2020; đã khai thác tốt lợi thế của tỉnh và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để gia tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa, toàn tỉnh hiện có 142 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sang 57 thị trường với 53 mặt hàng. Tổng lượng khách du lịch năm 2022 ước đạt 11,01 triệu lượt, gấp 1,92 lần năm 2020.
Hoạt động xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh. Tỉnh đã tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng công khai, minh bạch, tạo thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp; thực hiện rà soát, cắt giảm tối đa thời gian xử lý các thủ tục hành chính; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành và tiếp nhận hồ sơ, thủ tục hành chính trên các lĩnh vực. Các chỉ số về cải cách hành chính của tỉnh đã có bước cải thiện rõ rệt; trong đó Chỉ số hiệu quả Quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2021 của tỉnh đứng 3 cả nước, tăng 21 bậc so với năm 2020; Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) năm 2021 đứng thứ 14 cả nước, tăng 15 bậc. Từ năm 2021 đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 7.726 doanh nghiệp được thành lập mới, đứng thứ 6 cả nước; thu hút được 154 dự án đầu tư trực tiếp, trong đó có 19 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư đăng ký 29.669 tỷ đồng và 193 triệu USD. Lũy kế đến nay, trên địa bàn tỉnh có 143 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 14,7 tỷ USD, đứng đầu các tỉnh Bắc Trung Bộ và đứng thứ 8 cả nước về thu hút FDI.
Xác định công tác lập quy hoạch là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, tạo ra khung pháp lý cao nhất, là công cụ quan trọng để hoạch định các định hướng phát triển không gian kinh tế - xã hội, phân bố và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Ngay sau khi Luật Quy hoạch ra đời và có hiệu lực thi hành, Thanh Hóa đã khẩn trương triển khai thực hiện với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị tham gia vào công tác lập quy hoạch. Đến ngày 27/02/2023, Quy hoạch tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 153/QĐ-TTg; Thanh Hóa là tỉnh thứ 4 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh theo quy định của Luật Quy hoạch. Cùng với Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 37/2021/QH15 của Quốc hội khóa XV, Quy hoạch tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là những văn bản rất quan trọng, tạo hành lang pháp lý, điều kiện thuận lợi, mở ra thời cơ, động lực mới để Thanh Hóa phát triển.
Công tác phòng, chống dịch Covid-19 được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, quyết liệt, đồng bộ, sáng tạo, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19. Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, Tỉnh đã chủ động dự báo, phân tích, đánh giá sát, đúng tình hình, thực hiện quyết liệt các phương án, kịch bản, biện pháp phòng, chống dịch phù hợp với từng thời điểm, từng địa bàn, lĩnh vực; đẩy nhanh tiến độ tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19 cho các đối tượng để đạt miễn dịch cộng đồng. Khi tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh có chuyển biến tích cực và được kiểm soát tốt, Tỉnh đã linh hoạt điều chỉnh các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, ban hành các Quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” trong tình hình mới, mở cửa trở lại các hoạt động du lịch… tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển.
Bên cạnh những dấu ấn nổi bật trên bức tranh tăng trưởng kinh tế; các hoạt động văn hóa - xã hội tiếp tục có nhiều chuyển biến tiến bộ. Tỉnh đã tổ chức thành công nhiều sự kiện quan trọng, ngày lễ lớn của đất nước và của tỉnh, có sức lan tỏa mạnh, tạo hiệu ứng tốt trong xã hội, để lại dư âm tốt đẹp về đất và người xứ Thanh trong lòng bạn bè trong nước và quốc tế. Chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo, giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh chuyển biến rõ rệt. Giáo dục mũi nhọn, thể thao thành tích cao luôn nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước. Từ năm 2021 đến nay, có thêm 05 di sản văn hóa phi vật thể được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; có trên 135 nghìn lao động được giải quyết việc làm; tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh năm 2022 ước đạt 72%, tăng 2% so với năm 2020, trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ ước đạt 28,5%. Việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội, nhất là đối với đồng bào sinh sống trên sông, đồng bào sinh sống ở các khu vực có nguy cơ sạt lở cao, các gia đình chính sách, các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn… được quan tâm; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống Nhân dân không ngừng được nâng lên; tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2022 - 2025) còn 4,99%, giảm 1,78% so với năm 2021.
Chính trị ổn định, quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế và liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành bạn được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, liên tục, đồng bộ, quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả. Đã triển khai thực hiện kịp thời, nghiêm túc, sáng tạo các Nghị quyết của Trung ương, đặc biệt là Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" và Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045... Tập trung rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên trong, gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, đơn vị sự nghiệp công lập từ tỉnh đến cơ sở. Đoàn kết trong Đảng, trong Nhân dân được củng cố. Niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính quyền, vào Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể tiếp tục được nâng lên. Những kết quả đó, tiếp tục nhân lên niềm tin và khát vọng, tạo ra khí thế mới, động lực mới để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa thực hiện thành công các mục tiêu của nhiệm kỳ 2020 - 2025, đưa Thanh Hóa phát triển nhanh hơn, bền vững hơn trong giai đoạn tới.
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ của tỉnh trong thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm đó là:
Một là, phải thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố, giữ gìn và làm cao dầy hơn sự đoàn kết, thống nhất trong cấp ủy, chính quyền các cấp, trong tập thể lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trên cơ sở quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, vì lợi ích chung và vì sự phát triển của tỉnh, của địa phương, đơn vị; phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động, linh hoạt, sáng tạo phù hợp với tình hình thực tiễn.
Hai là, chú trọng làm tốt công tác dự báo, phân tích, đánh giá tình hình và luôn bám sát thực tiễn, trên cơ sở đó chủ động xây dựng và triển khai thực hiện các phương án, kịch bản, giải pháp cụ thể để kịp thời phòng chống, ứng phó, khắc phục hiệu quả những khó khăn, thách thức và những vấn đề phức tạp phát sinh, không để bị động, bất ngờ; ưu tiên giữ vững ổn định trong bối cảnh có nhiều biến động.
Ba là, tranh thủ tốt thời cơ, thuận lợi, sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và tinh thần tự lực, tự cường; huy động tối đa mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực từ doanh nghiệp và Nhân dân trong tỉnh, các tập đoàn, doanh nghiệp trong nước, nước ngoài để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc, phát sinh.
Bốn là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phải xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm và phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân; thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, rà soát kết quả thực hiện các mục tiêu đề ra để điều chỉnh, bổ sung giải pháp cho phù hợp; lấy hiệu quả công việc làm tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá, bố trí và sử dụng cán bộ; lấy khó khăn, thách thức làm động lực để phấn đấu vươn lên.
Năm là, xiết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của mỗi cán bộ, công chức, viên chức, nhất là tập thể lãnh đạo, quản lý và cá nhân người đứng đầu các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị; xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời cán bộ có sai phạm; điều chuyển, thay thế cán bộ yếu kém, không hoàn thành nhiệm vụ, có biểu hiện gây mất đoàn kết nội bộ.
Những kết quả mà Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa đạt được trong thời gian qua là rất trân trọng; song so với yêu cầu phát triển, Thanh Hóa vẫn còn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, đó là: Các nhân tố tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh vẫn rất lớn với nhiều yếu tố khó dự báo hơn, thách thức lớn hơn và khó lường hơn, nhất là biến động về giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào, áp lực lạm phát, chi phí sản xuất tăng cao; rủi ro về chuỗi cung ứng, nhu cầu từ các thị trường xuất khẩu lớn, truyền thống bị thu hẹp, suy yếu, sự điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế lớn, đối tác thương mại lớn dẫn đến giảm mạnh các đơn hàng xuất khẩu của doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng chưa thực sự bền vững và chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của các sản phẩm, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, năng lực khoa học công nghệ còn hạn chế. Hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp chưa cao, thiếu doanh nghiệp có vai trò đầu tàu, dẫn dắt. Kết cấu hạ tầng vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của tỉnh, nhất là hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và khu vực miền núi. Thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó lường... Đây là những yếu tố tác động bất lợi đến sự phát triển của tỉnh.
Để sớm hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng, phấn đấu đến năm 2025 đưa Thanh Hóa trong nhóm các tỉnh thành phố dẫn đầu cả nước - một cực tăng trưởng mới, cùng với Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh tạo thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 58-NQ/TW ngày 05/8/2020 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 – 2025; trong thời gian tới, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các chương trình, đề án, kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 58-NQ/TW và Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021 - 2025, các nghị quyết, kết luận, cơ chế, chính sách mới ban hành, để nhanh chóng phát huy hiệu quả. Khẩn trương rà soát, đánh giá sát đúng, cụ thể những kết quả đã đạt được trong hơn 2 năm rưỡi triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025; làm rõ những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân; dự báo tình hình trong thời gian tới; trên cơ sở đó đề ra các nhiệm vụ, giải pháp và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quyết liệt, hiệu quả nhằm thực hiện thắng lợi toàn diện các mục tiêu của nhiệm kỳ.
Phát huy hiệu quả các cơ chế, chính sách đặc thù theo Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội, tạo hành lang pháp lý, sự đột phá, khơi thông nguồn lực, tạo động lực thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển; đồng thời, trên cơ sở Quy hoạch tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tổ chức công bố và quán triệt các nội dung chính, cốt lõi của Quy hoạch tỉnh đến tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp Nhân dân nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức, đồng thuận trong tổ chức thực hiện. Tổ chức rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch có tính chất chuyên ngành theo Quy hoạch tỉnh để đẩy mạnh kêu gọi, xúc tiến đầu tư các nguồn lực, ưu tiên các nguồn lực sẵn có để đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi đến với tỉnh; rà soát, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng ban hành các cơ chế, chính sách mới phù hợp với từng giai đoạn phát triển để huy động và phát huy hiệu quả các nguồn lực.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung rà soát, hỗ trợ, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp. Phát triển ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh tích tụ, tập trung đất đai, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao để hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá quy mô lớn, chất lượng cao. Đổi mới phương thức sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Tập trung phát triển công nghiệp với tốc độ cao, trọng tâm là công nghiệp nặng, công nghiệp năng lượng và công nghiệp chế biến, chế tạo; ưu tiên phát triển mạnh các ngành công nghiệp lọc hóa dầu và sau lọc hóa dầu, công nghiệp phục vụ kinh tế biển, công nghiệp công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn…; thu hút đầu tư các dự án công nghiệp mới quy mô lớn, đưa Thanh Hoá trở thành một trong những trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ và cả nước về công nghiệp. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, đưa Thanh Hóa trở thành một trong những trọng điểm về du lịch, vận tải - cảng biển của khu vực và cả nước. Khai thác hiệu quả lợi thế của cụm cảng nước sâu Nghi Sơn để phát triển mạnh dịch vụ cảng biển, vận tải biển; xây dựng trung tâm logistics cấp vùng hạng I tại Khu kinh tế Nghi Sơn.
Thứ ba, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, tạo sức hấp dẫn mới để đẩy mạnh thu hút đầu tư, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn đầu tư công; ưu tiên bố trí vốn đầu tư công để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm; sử dụng hiệu quả vốn đầu tư công để dẫn dắt, thu hút nguồn lực hợp pháp của xã hội, tạo sự chuyển biến rõ nét về phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội. Thực hiện tốt nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước; chống thất thu, giảm nợ đọng thuế, quản lý hiệu quả, tiết kiệm chi ngân sách. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 và cải thiện thứ hạng các chỉ số PCI, PAPI, PAR INDEX, SIPAS. Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số.
Thứ tư, thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa - xã hội. Phát triển mạnh văn hóa, thể thao. Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giữ vững thành tích giáo dục mũi nhọn trong nhóm các tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động tối đa các nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân. Thực hiện đồng bộ các chương trình, đề án, chính sách hỗ trợ giảm nghèo; rà soát, sắp xếp dân cư ở những khu vực thường xuyên xảy ra lũ ống, lũ quét, bố trí nơi ở ổn định cho đồng bào sinh sống trên sông; ưu tiên hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, giúp người nghèo phát triển sinh kế, ổn định đời sống, tự vươn lên thoát nghèo bền vững.
Thứ năm, tăng cường công tác bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh liên kết, hợp tác với các tỉnh trong vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, thành phố Hà Nội và các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, nhất là trong xúc tiến đầu tư và thương mại, huy động và phân bổ nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; xây dựng các chương trình, tuyến du lịch liên tỉnh, liên vùng…
Thứ sáu, chăm lo xây dựng Đảng bộ đoàn kết, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; trọng tâm là xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng. Xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả công tác chính trị tư tưởng, công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng, Chính quyền với Nhân dân; xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển của tỉnh.
Phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, tinh thần đoàn kết, chủ động, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 58-NQ/TW và Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, sớm trở thành cực tăng trưởng mới ở phía Bắc của Tổ quốc, tỉnh giàu đẹp, văn minh và hiện đại, tỉnh phát triển toàn diện và kiểu mẫu của cả nước./.
[1] Khu kinh tế Nghi Sơn là 1 trong 8 Khu kinh tế trọng điểm ven biển của cả nước, được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập năm 2006 (Quyết định số 102/2006/QĐ-TTg ngày 15/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ) và được điều chỉnh, mở rộng quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Nghi Sơn đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050 lên 106.000 ha (theo Quyết định số 1699/QĐ-TTg ngày 07/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ).
[2] Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIX, trang 79.