(Thanhhoa.dcs.vn): Nội dung kiến nghị: Đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét: (i) Chấp thuận để HĐND tỉnh Thanh Hóa cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa đối với dự án đầu tư sử dụng đất trồng lúa 01 vụ hoặc sử dụng cả đất 01 vụ lúa và đất 02 vụ lúa có diện tích từ 10 ha đến dưới 500 ha để đảm bảo thống nhất, đồng bộ với quy định về chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa tại khoản 1 Điều 58 Luật Đất đai năm 2013 hoặc sửa đổi quy định tại điểm c khoản 1 Điều 1 Quyết định số 10/2022/QĐ-TTg ngày 6/4 /2022 của Thủ tướng Chính phủ từ: “Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa từ 02 vụ trở lên với quy mô dưới 500 ha” thành “Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa với quy mô từ 10 ha đến dưới 500 ha. (ii) Bổ sung điều khoản quy định cụ thể thành phần hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ tại Quyết định số 10/2022/QĐ-TTg ngày 6/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ (tương tự như quy định tại khoản 1 Điều 3 Quyết định số 14/2022/QĐ-TTg ngày 25/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ). (iii) Điều chỉnh, bổ sung ủy quyền cho HĐND tỉnh Thanh Hóa quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ dưới 500 ha vào quy định khoản 1 Điều 1 Quyết định số 14/2022/QĐ-TTg để đảm bảo thống nhất, đồng bộ, không tách rời với trình tự, thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 10/2022/QĐ-TTg và pháp luật đất đai.
Bộ Nông nghiệp và PTNT trả lời như sau:
1. Quyết định số 10/2022/QĐ-TTg ngày 6/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ quy định trình tự, thủ tục chấp thuận chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nước từ 02 vụ trở lên với quy mô dưới 500 ha; đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ đầu nguồn dưới 50 ha thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở triển khai thực hiện Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội khóa XV.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng ý về chủ trương với kiến nghị của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, để thực hiện được 2 nội dung kiến nghị trên, đề nghị UBND tỉnh Thanh Hóa báo cáo Chính phủ, Quốc hội ban hành Nghị quyết cho phép Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa được phép chấp thuận chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa đối với các dự án đầu tư sử dung đất trồng lúa có diện tích từ 10 ha đến dưới 500 ha.
2. Về quy định thành phần hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ tại Quyết định số 10/2022/QĐ-TTg ngày 06/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ:
Tại Quyết định số 2218/QĐ-TTg ngày 29/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các Nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 2, Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan được giao chủ trì soạn thảo quy định, trình tự thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất trồng lúa nước từ 2 vụ trở lên của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hoá, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 10/2022/QĐ-TTg ngày 06/4/2022.
Do vậy, đề nghị Cử tri tỉnh Thanh Hoá kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét bổ sung quy định về thành phần hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ tại Quyết định số 10/2022/QĐ-TTg ngày 06/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ, đảm bảo tuân thủ đúng nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định.
3. Về điều chỉnh, bổ sung ủy quyền cho HĐND tỉnh Thanh Hóa quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ dưới 500 ha vào quy định khoản 1 Điều 1 Quyết định số 14/2022/QĐ-TTg:
Tại khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội khoá XV về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thanh Hóa, quy định: “Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa quyết định chuyển mục đích sử dụng đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ đầu nguồn dưới 50 ha; đất trồng lúa nước từ 02 vụ trở lên với quy mô dưới 500 ha; quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sản xuất dưới 1.000 ha theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, phù hợp với quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền quyết định".
Như vậy, tại Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13/11/2021, Quốc hội chỉ quy định Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối với rừng sản xuất dưới 1.000 ha, không quy định uỷ quyền cho HĐND tỉnh Thanh Hoá quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ dưới 500 ha. Do vậy, không có cơ sở để bổ sung như đề nghị của Cử tri tỉnh Thanh Hoá vào quy định tại khoản 1 Điều 1 Quyết định số 14/2022/QĐ-TTg ngày 25/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
*Nội dung kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bố trí kinh phí đầu tư xây dựng công trình kè chống sạt lở bờ sông Chu đoạn qua địa phận các xã Xuân Bái, Thọ Xương và thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Bộ Nông nghiệp và PTNT trả lời như sau: Những năm qua, Chính phủ, các Bộ, ngành đã quan tâm bố trí kinh phí hỗ trợ tỉnh Thanh Hóa đầu tư xây dựng các công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển tại các vị trí, khu vực xung yếu. Trong đó, kinh phí đã bố trí từ năm 2020 đến nay là 872 tỷ đồng từ nguồn vốn dự phòng ngân sách trung ương để khắc phục hậu quả thiên tai, nguồn vốn xử lý cấp bách sự cố đê điều, nguồn vốn theo Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và Chương trình ứng phó biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh.
Tuy nhiên, Thanh Hóa là tỉnh có chiều dài bờ sông, bờ biển lớn, diễn biến sạt lở phức tạp nên nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương chưa thể đáp ứng được nhu cầu đề xuất của địa phương. Vì vậy, đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa kiến nghị Ủy ban nhân dân tỉnh rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên theo Kế hoạch tổng thể phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển trên địa bàn, thực hiện tốt các nguồn vốn đã được hỗ trợ, kết hợp huy động nguồn vốn của địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư xây dựng công trình phòng, chống sạt lở, trong đó công trình kè chống sạt lở bờ sông Chu thuộc địa bàn các xã Xuân Bái, Thọ Xương và thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân như kiến nghị của cử tri. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ khi có nguồn vốn phù hợp.
*Nội dung kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đầu tư nâng cấp, sửa chữa tuyến đê tả sông Bưởi đoạn qua xã Vĩnh Phúc và xã Vĩnh Hưng có chiều dài 6,241 km, từ K 16+580-K22+821 hiện nay đã xuống cấp; tuyến đê Trung ương tả sông Mã từ K2+600-K3+500 giáp ranh giữa xã Vĩnh Yên và xã Vĩnh Quang hiện mặt đê đã hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng, có chỗ sụt, lún rất nguy hiểm, gây khó khăn cho việc bảo vệ an toàn tuyến đê và việc đi lại của người dân.
Bộ Nông nghiệp và PTNT trả lời như sau: Những năm qua, Chính phủ, các Bộ, ngành đã quan tâm bố trí kinh phí hỗ trợ tỉnh Thanh Hóa thực hiện đầu tư nâng cấp các tuyến đê trên địa bàn. Trong đó, kinh phí đã bố trí theo Chương trình nâng cấp đê sông là 3.729 tỷ đồng; kinh phí bố trí theo Kế hoạch trung hạn giai đoạn 2021-2025 là 312 tỷ đồng. Bên cạnh đó, trước ảnh hưởng của các đợt thiên tai, Ban chỉ đạo Quốc gia về Phòng, chống thiên tai đều tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ kinh phí từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương để tỉnh khắc phục hậu quả thiên tai, xử lý cấp bách các công trình đê điều bị sự cố (kinh phí đã hỗ trợ từ năm 2017 đến nay là 965 tỷ đồng); ngoài ra, năm 2022 Chính phủ đã hỗ trợ cho tỉnh 250 tỷ đồng từ nguồn vốn Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội để xây dựng, nâng cấp công trình đê, kè trên địa bàn.
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ xét phê duyệt dự án Quản lý tổng hợp rủi ro lũ lụt thích ứng với biến đổi khí hậu bằng nguồn vốn vay của Ngân hàng phát triển châu Á (dự án ADB10) để tiếp tục đầu tư nâng cấp hệ thống đê điều, kinh phí dự kiến bố trí để nâng cấp các tuyến đê trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa khoảng 600 tỷ đồng, trong đó sẽ đầu tư, nâng cấp đoạn đê tả sông Mã từ K2+600-K3+500 thuộc địa bàn các xã Vĩnh Yên, Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Lộc.
Đối với tuyến đê tả sông Bưởi đoạn từ K16+580 - K22+821 thuộc địa bàn các xã Vĩnh Phúc, Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lộc (là tuyến đê cấp IV), đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa kiến nghị Ủy ban nhân dân tỉnh rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên và bố trí nguồn vốn của địa phương để thực hiện. Đồng thời, có biện pháp hiệu quả để ngăn chặn, xử lý dứt điểm tình trạng xe quá tải trọng đi trên đê gây hư hỏng mặt đê, bảo vệ thành quả đầu tư, đảm bảo an toàn phòng chống lụt bão và phục vụ giao thông đi lại của Nhân dân.