(Thanhhoa.dcs.vn): Ngày 06/4/2024, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với tỉnh Thanh Hóa tổ chức Chương trình gặp mặt, tri ân chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ; đồng chí Đỗ Trọng Hưng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh đã có bài phát biểu ôn lại truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc, thể hiện tình cảm, lòng biết ơn vô hạn đối với những người đã có công lao đóng góp cho chiến thắng “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đồng thời nêu bật niềm tin, ý chí quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Cổng Thông tin điện tử Tỉnh ủy Thanh Hóa xin trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Đồng chí.
Kính thưa đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam!
Kính thưa các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng; các đồng chí lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương và Quân khu IV, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa và lãnh đạo các tỉnh bạn!
Thưa các Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, các thương binh, chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và thân nhân gia đình liệt sĩ trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ!
Thưa các quý vị đại biểu và toàn thể Nhân dân!
Trong niềm phấn khởi và rất đỗi tự hào hướng tới kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (07/5/1954 - 07/5/2024); hôm nay, trên vùng đất Thanh Hóa anh hùng, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với tỉnh Thanh Hóa long trọng tổ chức Chương trình gặp mặt, tri ân chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là sự kiện có ý nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc, nhằm ôn lại truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc; thể hiện tình cảm, lòng biết ơn vô hạn đối với những người đã có công lao đóng góp cho chiến thắng “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; tiếp tục xây dựng và tăng cường niềm tin, ý chí quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Thay mặt Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Thanh Hóa, tôi nhiệt liệt chào mừng và trân trọng gửi tới đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; đại biểu Quân khu IV và các tỉnh bạn; các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa, đại biểu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, các thương binh, chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và thân nhân các gia đình liệt sĩ tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ các tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa; các quý vị đại biểu khách quý, cùng toàn thể Nhân dân những tình cảm thân thiết, lời thăm hỏi thân tình và lời chúc mừng tốt đẹp nhất!
Trong không khí trang nghiêm của buổi gặp mặt, chúng ta thành kính tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta, Lãnh tụ kính yêu của dân tộc, linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Xin kính cẩn tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Người Anh Cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam Anh hùng, Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Chiến dịch Điện Biên Phủ. Luôn mãi mãi khắc ghi và tri ân công ơn của các mẹ Việt Nam Anh hùng, các vị tướng lĩnh, cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và nhiều thế hệ đồng chí, đồng bào yêu nước, đã đóng góp máu xương cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho hạnh phúc của Nhân dân.
Kính thưa các đồng chí!
Thưa các quý vị đại biểu và toàn thể Nhân dân!
Cách đây 70 năm, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành toàn thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần quyết định kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp và là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giữ nước vĩ đại của dân tộc ta.
Ngược dòng lịch sử, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời; thực dân Pháp tìm mọi cách tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ, dã tâm nhanh chóng xâm chiếm nước ta một lần nữa. Trong bối cảnh phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, tình thế như “ngàn cân treo sợi tóc”, đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, cổ vũ tinh thần yêu nước của cả dân tộc nhất tề đứng lên chống thực dân Pháp với quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta liên tiếp giành nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch Việt Bắc 1947, Biên giới 1950,… làm cho cục diện chiến tranh ngày càng chuyển biến có lợi cho ta, vùng giải phóng được mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố, lực lượng vũ trang cách mạng trưởng thành nhanh chóng.
Bước vào Thu Đông 1953, thực dân Pháp với sự hỗ trợ của đế quốc Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Na-va, tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh ở Việt Nam nhằm giành thắng lợi có tính quyết định về quân sự trong vòng 18 tháng. Trên cơ sở phân tích, đánh giá sâu sắc tình hình thế giới, trong nước, tháng 9/1953, Bộ Chính trị đã họp và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, quyết tâm giữ vững thế chủ động, đánh địch cả chính diện và sau lưng, phương châm tác chiến “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”, để đánh bại Kế hoạch Na-va. Với tinh thần cả nước ra trận, quân và dân ta đã liên tục tiến công, giáng cho địch nhiều thất bại nặng nề, buộc chúng rơi vào thế bị động đối phó trên khắp các chiến trường. Trước nguy cơ Kế hoạch Na-va phá sản, thực dân Pháp gấp rút điều động lực lượng nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ, tăng cường lực lượng, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương - một pháo đài "bất khả xâm phạm", nhằm tạo bàn đạp chiếm lại Tây Bắc, khống chế Thượng Lào, đồng thời thu hút, “nghiền nát” chủ lực ta ở Việt Bắc để quân Pháp rảnh tay hoạt động ở đồng bằng Bắc Bộ và đánh chiếm Liên khu V.
Trên cơ sở nắm chắc mọi âm mưu, hành động của kẻ thù, phân tích, đánh giá tình hình một cách khoa học, đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ với bí danh “Trần Đình”, thông qua phương án tác chiến và giao cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Chiến dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”[1]. Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của chiến dịch, mọi công việc chuẩn bị đã được tiến hành khẩn trương. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch; dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch. Cả một hậu phương rộng lớn, từ vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây Bắc đến vùng du kích và căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ, vùng mới giải phóng ở Thượng Lào, đều dồn sức người, sức của hướng về Điện Biên Phủ.
Trước khí thế sục sôi của cuộc chiến, cùng với đồng bào cả nước, quân và dân các tỉnh: Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, đều tích cực hưởng ứng tham gia chiến dịch. Thực hiện phương án tác chiến đã được Bộ Chính trị phê duyệt, quân và dân các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ đã chủ động mở nhiều đợt tổng công kích, đập vỡ nhiều tuyến phòng thủ, mở rộng vùng tự do, nối liền các khu căn cứ du kích sau lưng địch; triệt để đánh phá giao thông vận tải, các kho tàng, phương tiện chiến tranh, uy hiếp hậu phương, căng kéo lực lượng, ngăn chặn không cho địch tiếp viện, giải cứu Điện Biên Phủ; quân và dân các tỉnh Bắc Trung Bộ vừa đẩy mạnh tác chiến, thi đua “giết giặc lập công” trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, vừa phát động phong trào tăng gia sản xuất với khí thế “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” ở hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Bên cạnh các hoạt động tác chiến, quân và dân các tỉnh đã động viên hàng ngàn thanh niên tòng quân, tổ chức cho hàng vạn dân công vượt qua "mưa bom, bão đạn" tham gia mở đường, tấp nập thồ, tải đạn pháo, lương thực, thực phẩm ngày đêm phục vụ Chiến dịch.
Ngày 13/3/1954, tiếng súng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vang lên. Quân và dân các tỉnh coi đó là mệnh lệnh hiệp đồng chiến đấu, mở đợt tiến công lớn trên toàn địa bàn. Trải qua 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”[2], chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, chuyển từ phương châm “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc”; quân ta đã lần lượt tấn công tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và đồi Độc Lập, thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch. Ngày 07/5/1954, Lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam hiên ngang tung bay trên nóc hầm Đờ Ca-xtơ-ri. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang, "một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử"[3]. Để có được chiến thắng vẻ vang ấy, đã có biết bao tấm gương anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Những chiến sĩ mang trong mình tình yêu Tổ quốc, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đó là tấm gương sáng ngời của anh hùng liệt sĩ Phan Đình Giót, quê huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh lấy thân mình bịt kín lỗ châu mai; của anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh Diện quê huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa dùng thân mình chèn pháo; của anh hùng Tạ Quốc Luật quê huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, Đại đội trưởng hiên ngang dẫn đầu tổ xung kích bắt sống tướng Đờ Ca-xtơ-ri, cùng rất nhiều tấm gương tiêu biểu khác đã làm cho dốc Pha Đin ngắn lại, đèo Lũng Lô trùng xuống, cây xanh mở lối, núi ngả cúi đầu. Tất cả những cống hiến, hy sinh của các anh, các chị đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ, biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước nồng nàn, của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, của ý chí và sức mạnh Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo; là biểu hiện đặc sắc của nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thế trận lòng dân, cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc; là ý chí quyết đánh, dám đánh và quyết tâm đánh thắng kẻ thù với tất cả sự mưu trí, lòng dũng cảm và tinh thần chủ động, sáng tạo; là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hậu phương và tiền tuyến, giữa quân sự và ngoại giao, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng kẻ thù.
Suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và ngay trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sức xây dựng, củng cố, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, mà nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức; chăm lo xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Liên Việt đã tập hợp, đoàn kết, giác ngộ và tổ chức các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, mọi cá nhân yêu nước trong xã hội để hình thành và phát triển lực lượng cách mạng rộng lớn, góp phần dệt nên bản anh hùng ca Điện Biên Phủ còn vang mãi đến hôm nay và mai sau.
Kính thưa các đồng chí!
Thưa các quý vị đại biểu và toàn thể Nhân dân!
Với vị trí điểm đầu vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Thanh Hóa là nhịp cầu nối giữa chiến trường Bắc bộ và Bình - Trị - Thiên, là địa bàn tiếp giáp với Tây Bắc, Thượng Lào. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đảng bộ, quân và dân Thanh Hóa đã thể hiện rõ vai trò hậu phương chiến lược quan trọng. Mặc dù đời sống Nhân dân còn hết sức khó khăn, thiếu thốn, nhưng với tinh thần "cả nước cùng ra trận", "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", theo lời kêu gọi của Đảng và Mặt trận Liên Việt, trong 3 đợt phục vụ Chiến dịch, toàn tỉnh đã huy động 200 ngàn dân công dài hạn và ngắn hạn, hơn 3.500 xe đạp thồ, 1.126 thuyền ván các loại, 31 ô tô, 180 xe bò, 42 ngựa thồ, 3 voi thồ hàng và nhiều phương tiện vận chuyển khác, cung cấp hơn 4.500 tấn gạo, 350 tấn thực phẩm, 2.000 con lợn, 350 con trâu, bò và hàng trăm tấn rau các loại. Hậu phương Thanh Hóa đã huy động cao nhất sức người, sức của, bảo đảm hậu cần cho thắng lợi của Chiến dịch.
Dù Điện Biên Phủ nằm ở xa hậu phương, địa hình hiểm trở, địch tập trung đánh phá ác liệt, nhưng không ngăn được từng đoàn dân công nối nhau từ miền Tây Thanh Hoá xuyên rừng, vượt núi, trèo đèo, bí mật đưa hàng tới đích an toàn. Trong những ngày tháng ác liệt ấy, đã xuất hiện nhiều những tấm gương anh hùng, "Dù bom đạn, xương tan thịt nát. Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh", họ đã sống đẹp, sống hết mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, đó là: Đồng chí Đới Sỹ Trầu, quê huyện Quảng Xương, liên tục gánh đôi bồ nặng 60 kg, dẫn đầu về gánh bộ phục vụ chiến dịch; là những chiến sĩ xe đạp thồ Cao Văn Tỵ, Trịnh Ngọc, quê thị xã Thanh Hoá, đã đạt kỷ lục thồ từ 160 kg lên 195 kg, rồi trên 300 kg mỗi chuyến; là người nông dân Trịnh Đình Bầm, quê xã Định Liên, huyện Yên Định, với lòng yêu nước nồng nàn đã không chút đắn đo khi quyết định tháo dỡ chiếc bàn thờ gia tiên để làm bánh xe cút kít, phục vụ vận chuyển hàng hóa...
Kính thưa các đồng chí!
Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu” không chỉ vì chiến thắng oanh liệt trên chiến trường, của những cuộc đối đầu tưởng như không cân sức giữa một bên là thực dân hùng mạnh với trang bị vũ khí hiện đại và một bên là lực lượng quân dân với trang bị vũ khí thô sơ; càng không chỉ “chấn động địa cầu” bởi chiến thắng quân sự, chính trị, ngoại giao với việc chấm dứt ách đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước ta và buộc chúng phải ký Hiệp định Genève; mà quan trọng hơn đó là vì những kỳ tích được tạo nên bởi những con người bình dị, quả cảm, kiên trung, anh hùng. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chứng minh chân lý, không có pháo đài nào không thể công phá, chỉ có lòng dân và tinh thần dân tộc là bất khả xâm phạm.
Ghi nhận những đóng góp to lớn của Đảng bộ, quân và dân Thanh Hóa, Trung ương Đảng, Chính phủ đã tặng cờ thi đua khá nhất; nhiều cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong tỉnh được Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh khen thưởng. Trong dịp về thăm Thanh Hóa lần thứ hai vào tháng 6/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi "Trong kháng chiến đồng bào tỉnh ta, các tầng lớp nhân dân đều tỏ ra đoàn kết, tham gia kháng chiến. Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó"[4].
Thưa các quý vị đại biểu và toàn thể Nhân dân!
Tiếp nối và phát huy truyền thống Điện Biên Phủ anh hùng, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", quân và dân các tỉnh khu vực Nam Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phối hợp với các đơn vị bộ đội chủ lực vừa chiến đấu bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vừa chi viện kịp thời sức người, sức của cho tiền tuyến lớn, cùng cả nước "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, các tỉnh đều phát huy tốt nội lực, sức lao động sáng tạo trong Nhân dân, khơi dậy được tiềm năng, lợi thế, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước được nâng lên; chính trị ổn định; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc được bảo vệ vững chắc, như khẳng định của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng "Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".[5]
Đối với tỉnh Thanh Hóa, trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự ủng hộ, giúp đỡ của các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương và các tỉnh, thành bạn; Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã đoàn kết, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng cao; chất lượng tăng trưởng được nâng lên. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân giai đoạn 2011 - 2020 đạt 10,3%/năm; giai đoạn 2021 - 2023 đạt 9,69%. Quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt 279.074 tỷ đồng, gấp 1,5 lần năm 2020. Thu ngân sách nhà nước luôn vượt dự toán; tốc độ tăng thu giai đoạn 2021-2023 đạt 11,3%; trong đó năm 2022 đạt 51.138 tỷ đồng, là năm đầu tiên thu ngân sách của tỉnh vượt mốc 51 nghìn tỷ đồng, gấp 1,62 lần năm 2020. Thu nhập bình quân đầu người năm 2023 đạt 3.144 USD, gấp 1,42 lần năm 2020.
Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa. Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng mạnh, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được quan tâm đầu tư; hạ tầng giao thông không ngừng được cải thiện, kết nối thuận lợi với các đô thị, các trung tâm kinh tế lớn của đất nước; hạ tầng dịch vụ du lịch phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; đô thị phát triển nhanh theo hướng hiện đại, tạo ra diện mạo mới cho phát triển của tỉnh. Văn hóa - xã hội tiếp tục chuyển biến tiến bộ; giáo dục mũi nhọn, thể thao thành tích cao duy trì trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước. An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống Nhân dân được nâng lên; nhiều hộ gia đình nghèo nhiều đời sinh sống trên sông và ở các khu vực có nguy cơ cao bị lũ ống, lũ quét, sạt lở đất nay đã được hỗ trợ xây dựng nhà ở nơi an toàn. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2022 - 2025) năm 2023 giảm xuống còn 3,52%. Chính trị ổn định, quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế và liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành bạn được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đạt nhiều kết quả quan trọng; đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong Nhân dân được tăng cường. Những kết quả đó, tiếp tục nhân lên niềm tin và khát vọng, tạo ra khí thế mới, động lực mới để Thanh Hóa vững vàng trên hành trình hướng tới mục tiêu trở thành cực tăng trưởng mới ở phía Bắc của Tổ quốc, tỉnh văn minh, hiện đại, tỉnh giàu đẹp và "kiểu mẫu" của cả nước.
Kính thưa các đồng chí!
Thưa các quý vị đại biểu và toàn thể Nhân dân!
Bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thời cơ, thuận lợi, đan xen không ít khó khăn, thách thức, tác động trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu “Phấn đấu đến năm 2025, Thanh Hóa trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước - một cực tăng trưởng mới, cùng với Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh tạo thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc; đến năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại”[6] như Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đã xác định; kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc; với tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Chiến dịch Ðiện Biên Phủ, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa đã và đang tiếp tục phát huy mạnh mẽ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, tập trung triển khai thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm, đó là:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả các chương trình, đề án, kế hoạch thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021 - 2025; triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Quy hoạch chung đô thị Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đến năm 2040; các cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thanh Hóa theo Nghị quyết số 37/2021/QH15 của Quốc hội khóa XV và các cơ chế, chính sách của tỉnh đã ban hành. Phát huy cao nhất mọi tiềm năng, lợi thế để phát triển Thanh Hóa trở thành một cực tăng trưởng mới ở phía Bắc của Tổ quốc với nông nghiệp quy mô lớn, giá trị gia tăng cao và công nghiệp nặng là nền tảng; công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ logistics là đột phá; du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Trọng tâm là phát triển ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh tích tụ, tập trung đất đai, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao để hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá quy mô lớn, chất lượng cao. Đổi mới phương thức sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Mở rộng quy mô sản xuất các ngành công nghiệp có thế mạnh, đưa Thanh Hóa trở thành một trong những trung tâm lớn của vùng Bắc Trung bộ và cả nước về công nghiệp năng lượng và chế biến, chế tạo; ưu tiên phát triển mạnh các ngành công nghiệp lọc hóa dầu và sau lọc hóa dầu, công nghiệp phục vụ kinh tế biển, công nghiệp công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn... Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, đưa Thanh Hóa trở thành một trong những trọng điểm về du lịch, vận tải - cảng biển của khu vực và cả nước.
Thứ hai, tập trung phát triển toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm 03 vùng kinh tế - xã hội theo hướng: Phát triển ổn định vùng miền núi; phát triển nhanh vùng đồng bằng và trung du; phát triển đột phá vùng ven biển và hải đảo. Quan tâm phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối các vùng, miền, các cực tăng trưởng trong và ngoài tỉnh. Tiếp tục đầu tư đồng bộ, hoàn chỉnh các công trình hạ tầng thiết yếu để sớm đưa Khu kinh tế Nghi Sơn trở thành một trong những trung tâm đô thị công nghiệp và dịch vụ ven biển trọng điểm của cả nước. Thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế cho phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở tạo sự đột phá về cải cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư và kinh doanh. Tăng cường công tác quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ ba, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại; xây dựng và phát triển văn hóa, con người xứ Thanh, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa - xã hội; giữ vững và phát huy thành tựu đã đạt được, nhất là thành tích về giáo dục mũi nhọn và thể thao thành tích cao; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho Nhân dân. Phát động và triển khai thực hiện hiệu quả Cuộc vận động hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, hộ còn khó khăn về nhà ở trên địa bàn tỉnh, với mục tiêu đến ngày 30/9/2025 toàn tỉnh có ít nhất 5.000 hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, hộ còn khó khăn về nhà ở được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở. Tăng cường quốc phòng - an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, tạo nền tảng bảo vệ vững chắc Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Đẩy mạnh liên kết, hợp tác với các tỉnh trong vùng Nam đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung Bộ và các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhất là trong xúc tiến đầu tư và thương mại, huy động và phân bổ nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…
Thứ tư, chăm lo xây dựng Đảng bộ đoàn kết, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; trọng tâm là xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng. Xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tập trung cao cho công tác chuẩn bị Đại hội Đảng bộ các cấp, nhiệm kỳ 2025-2030, tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX; tập trung nghiên cứu xây dựng các văn kiện Đại hội với những định hướng chiến lược cho sự phát triển của tỉnh giai đoạn 2025-2030 và những năm tiếp theo. Chủ động chuẩn bị vững chắc đội ngũ cán bộ cho nhiệm kỳ mới, bảo đảm sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2025, gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị.
Thứ năm, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tạo chuyển biến rõ nét về chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp, tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân. Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, tạo sự đồng thuận, xây dựng "cầu nối" vững chắc giữa "ý Đảng - lòng dân" trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Các cấp ủy đảng, chính quyền tăng cường tiếp xúc, đối thoại, giải quyết kịp thời các kiến nghị của Nhân dân. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, hội quần chúng trong tham gia phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo, tham mưu giải quyết kịp thời các vấn đề dân tộc, tôn giáo phát sinh. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống dân vận các cấp; tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với các phong trào thi đua yêu nước.
Kính thưa các đồng chí!
Thưa các quý vị đại biểu và toàn thể Nhân dân!
70 năm đã trôi qua kể từ ngày quân và dân ta dệt nên bản anh hùng ca Chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Thời gian càng lùi xa, ý nghĩa, tầm vóc của sự kiện lịch sử trọng đại này không bao giờ phai mờ, mà ngày càng tỏa sáng trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tinh thần và khí thế hào hùng của Chiến thắng Điện Biên Phủ, vận hội mới của đất nước, đang thôi thúc chúng ta tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, như Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã quyết nghị.
Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
Tinh thần Chiến thắng Điện Biên Phủ bất diệt!
Một lần nữa, tôi kính chúc đồng chí Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo, các vị đại biểu, cùng toàn thể Nhân dân mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công!
Xin trân trọng cảm ơn!
[1] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, HN, 2016, t.5, tr.323
[2] Trích bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điên Biên, Tố Hữu.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t 14, tr.315.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, HN, 2011, t.10, tr.598
[5] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, HN, 2022, tr 34.
[6] Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIX, Nhà in Báo Thanh Hóa, TH, 2020, tr.23