(Thanhhoa.dcs.vn): Thời gian qua, các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách về chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân.

Hạ tầng công nghệ thông tin và hạ tầng thiết yếu tiếp tục phát triển. Đến nay, mạng thông tin di động băng thông rộng công nghệ 3G, 4G và mạng truy nhập Internet băng rộng cố định đã phủ sóng tới 99,9% số thôn, bản, khu phố và 99,7% người dân trên địa bàn tỉnh; 100% trung tâm các xã, phường, thị trấn và hầu hết các thôn, bản có mạng truyền dẫn quang, phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng chính quyền điện tử, phát triển kinh tế số, xã hội số. Tỷ lệ người dân sử dụng các dịch vụ viễn thông, CNTT ngày càng tăng, toàn tỉnh có trên 2.980.000 thuê bao điện thoại (mật độ đạt 81,5 thuê bao/100 dân), 2.450.000 thuê bao Internet (mật độ đạt 66,7 thuê bao/100 dân). Hạ tầng, trang thiết bị CNTT trong các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể được quan tâm đầu tư đồng bộ từ tỉnh đến cấp xã; 100% cán bộ, công chức được trang bị máy vi tính, thiết bị CNTT; 100% cơ quan, đơn vị có hạ tầng mạng nội bộ (LAN), kết nối Internet băng rộng, thực hiện chuyển đổi sang địa chỉ Internet phiên bản mới IPv6 theo xu hướng phát triển của thế giới.

Việc ứng dụng các công nghệ mới của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đạt kết quả tích cực; trong đó: Về nông, lâm nghiệp, thủy sản, tỷ lệ ứng dụng các giống tiến bộ, ứng dụng kỹ thuật sinh học đạt 94% đối với lúa, 100% đối với ngô, 84% đối với rau màu, 88% đối với cây công nghiệp; xây dựng được 82 mã số vùng trồng tại các huyện, thị xã, thành phố; phát triển diện tích cây trồng sản xuất theo hướng hữu cơ đạt 862,4 ha; ứng dụng, chuyển giao công nghệ tưới nước thông minh, tiết kiệm đối với rau an toàn, cây ăn quả và vùng mía thâm canh đạt 2.860 ha; bước đầu ứng dụng công nghệ viễn thám và hệ thống thông tin địa lý GIS trong quản lý vùng trồng mía nguyên liệu; công nghệ máy bay không người lái trong phun thuốc bảo vệ thực vật; ứng dụng công nghệ viễn thám trong quản lý, bảo vệ rừng. Về du lịch, đã thực hiện số hóa 71 khu, điểm du lịch, 25 khách sạn lên phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu du lịch; triển khai ứng dụng du lịch thông minh (như: thuyết minh điện tử tự động, 3D tại các khu, điểm du lịch trọng điểm phục vụ du khách). Về y tế, đã tăng cường ứng dụng kỹ thuật cao trong khám, chữa bệnh; xây dựng mô hình y tế thông minh tại 03 bệnh viện tuyến tỉnh (bệnh viện Nội tiết, Phụ sản, Đa khoa tỉnh) và 05 bệnh viện tuyến huyện; kết nối 13 bệnh viện để khám chữa bệnh từ xa với tuyến trên và hỗ trợ tuyến dưới; triển khai hệ thống thông tin bệnh viện (HIS) tới 100% bệnh viện các tuyến. Về giáo dục, đã triển khai sâu rộng các phần mềm quản lý trường học (như: Vnedu, Smas, Misa...); từng bước đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ, xây dựng mô hình lớp học thông minh, trường học thông minh. Về bảo vệ môi trường, đã triển khai Dự án xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quản lý tài nguyên và môi trường; vận hành 91 trạm quan trắc môi trường tự động, phục vụ tốt công tác quản lý, bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh... Từ năm 2018 đến nay, đã có thêm 12 doanh nghiệp KHCN được thành lập, nâng tổng số doanh nghiệp KHCN toàn tỉnh lên 31 doanh nghiệp, xếp thứ 3 toàn quốc. Kinh phí sự nghiệp khoa học được tỉnh bố trí bình quân hàng năm chiếm 1,3% tổng dự toán; tổng chi ngân sách địa phương cho KHCN giai đoạn 2021-2023 đạt trên 252 tỷ đồng.

Các nhiệm vụ chuyển đổi số được thực hiện đồng bộ, đạt kết quả tích cực. Tập trung triển khai xây dựng chính quyền điện tử, đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến, phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Đến nay, 100% cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện xử lý công việc trên môi trường điện tử; triển khai chữ ký số tới 100% các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, cấp xã và các đơn vị sự nghiệp. Kinh tế số từng bước phát triển, 27/27 huyện, thị xã, thành phố đã triển khai việc sử dụng và thanh toán không dùng tiền mặt trong các cơ sở giáo dục, y tế; 100% các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Xã hội số có chuyển biến tích cực, các cơ sở giáo dục triển khai hiệu quả hình thức dạy học trực tuyến, đẩy mạnh sử dụng các bài giảng điện tử phục vụ đổi mới phương pháp dạy học; kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thông tin của trên 63.200 người có công (đạt 97,2%), 193.891 đối tượng bảo trợ xã hội (đạt 100%) và gần 3,19 triệu người tham gia BHXH (đạt 97,8%) để tra cứu, giải quyết các chế độ, chính sách...  

Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị vẫn còn một số khó khăn, hạn chế, như: Việc lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW và các nhiệm vụ chuyển đổi số tại một số địa phương, cơ quan, đơn vị còn lúng túng, chưa đáp ứng yêu cầu. Kinh tế số còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong GRDP của tỉnh; ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, kinh doanh và quản trị doanh nghiệp còn hạn chế; thương mại, điện tử phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Số lượng các doanh nghiệp CNTT có các hoạt động nghiên cứu, sản xuất phần mềm, sản phẩm nội dung số trên địa bàn tỉnh còn ít, phần lớn có quy mô nhỏ và siêu nhỏ; việc thu hút các các tập đoàn, doanh nghiệp CNTT lớn đầu tư vào tỉnh còn hạn chế. Nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn thiếu và yếu, nhất là nhân lực CNTT; tỷ lệ doanh nghiệp KHCN trên tổng số doanh nghiệp còn thấp...

(Phòng Tổng hợp - Văn phòng Tỉnh uỷ Thanh Hoá)